Top 11 # Xem Nhiều Nhất Xem Băng Dạy Tiếng Việt Công Nghệ Lớp 1 Mới Nhất 4/2023 # Top Like | Maytinhlongthanh.com

Tiết Dạy Tiếng Việt Công Nghệ Giáo Dục Lớp 1

Ngày 17 tháng 10 năm 2018 dưới sự chỉ đạo của BGH trường tiểu học Đức Dũng, huyện Đức Thọ tổ chức dạy chuyên đề môn TV CNGD lớp 1.

Về dự tiết chuyên đề có thầy giáo Đào Hữu Tình hiệu trưởng nhà trường; cô giáo Trần Thị Thùy Lê phó HT nhà trường, cùng tất cả các thầy giáo, cô giáo trong trường về tham dự.

Trong buổi chuyên đề thay mặt cho giáo viên dạy lớp 1, cô giáo Nguyễn Thị Thanh Hải đã thể hiện 2 việc của bài: Âm /ô/.

Thông qua bài dạy của cô giáo, các đồng nghiệp được nắm sâu hơn về quy trình 4 việc. Có thể nói, dạy học theo chương trình này giáo viên với vai trò là người hướng dẫn, còn học sinh là người kiến thiết tạo nên bài học. Các em vừa được học, vừa được hoạt động nên tạo được sự hứng thú trong giờ học. Qua các hoạt động, giúp học sinh nắm bắt quy luật nhanh, chất lượng học TV của các em tốt hơn so với phương pháp học trước đây.

Với quan điểm giúp học sinh được học và học thông qua hệ thống việc làm. Bằng cách này, dưới sự tổ chức, hướng dẫn của GV, HS tự tạo ra “sản phẩm” học tập của mình để chiếm lĩnh tri thức và hoàn thiện kĩ năng. Đây chính là nền tảng để khi các em lên lớp 2 có phương pháp học tập tốt hơn, có kĩ năng đọc thông, viết thạo.

Kết thúc buổi chuyên đề thầy HT đã ghi nhận, đánh giá cao về kết quả tiết dạy và biểu dương kết quả thực hiện môn TV1 CGD của trường. Trong những năm qua, với sự chỉ đạo quyết liệt của BGH nhà trường, sự quyết tâm cao của các đồng chí GV dạy lớp 1 nên trường luôn đạt được kết quả như mong muốn.

Một số hình ảnh của tiết dạy

Tác giả: Phan Thị Thắm

Dạy Luật Chính Tả Trong Môn Tiếng Việt Công Nghệ Lớp 1

CnH là công nghệ cho H học, là Công nghệ tự học. H trực tiếp tự mình thực thi cả 4 việc, làm theo thứ tự chặt chẽ của quy trình cứng, hình thành CÁCH nghĩ ( tư duy ) .

Khi dạy về Luật chính tả trong TV1. CGDvới giáo viên trực tiếp như chúng tôi gặp không ít khó khăn.Đối tượng là học sinh lớp 1, các em còn nhỏ,nội dung học về luật chính tả nhiều nên giáo viên phải tìm nhiều phương pháp để cho các em khắc sâu và ghi nhớ lâu trong suốt quá trình học tạo thành kĩ năng để vận dụng vào thực tế.

Qua một thời gian giảng dạy về Luật chính tả trong TV1. CGD tôi đã phần nào hiểu về nội dung môn học nên đã mạnh dạn đưa ra chuyên đề : ” Chuyên đề dạy luật chính tả trong môn Tiếng Việt Công nghệ lớp 1″.

II.Các giải pháp thực hiện:

1. Nội dung luật chính tả TV1.CGD:

Trong quá trình lập mẫu và dùng mẫu H được vận dụng các quy tắc chính tả:

*Vai trò của Luật chính tả trong TV1.CGD:

-Cùng với cấu trúc ngữ âm Tiếng Việt, LCT là một thành phần không thể tách rời của TV1.CGD.

-Nhằm giải quyết mối quan hệ Âm – Chữ để đạt được mục tiêu : đọc thông; viết thạo (không viết sai chính tả); không tái mù.

-Luật chính tả viết hoa.

-Luật chính tả e, ê, i.

-Luật chính tả âm đệm.

-Luật chính tả nguyên âm đôi.

-Luật chính tả phiên âm tiếng nước ngoài.

-Luật chính tả ghi dấu thanh.

-Luật chính tả theo nghĩa.

-Một số trường hợp đặc biệt.

2.Giải pháp:

Để dạy tốt môn Tiếng Việt 1- Công nghệ giáo dục phần Luật chính tả có hiệu quả cao, theo tôi, giáo viên cần vận dụng phù hợp các hình thức tổ chức dạy học trong từng tiết học một cách hiệu quả nhất.Đồng thời, sử dụng một số phương pháp dạy học như: Phương pháp làm mẫu, phương pháp phân tích mẫu, phương pháp hỏi đáp, phương pháp trực quan… kết hợp với nhiều hình thức dạy học như: Học theo lớp, nhóm; cá nhân,…

Giáo viên luôn yêu cầu học sinh thực hành và rèn luyện kỹ năng đọc, viết; lưu ý trang bị cho học sinh kiến thức từ thấp đến cao.

Để làm được điều này, người giáo viên chỉ nhiệt tình giảng dạy là không đủ mà còn phải vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học; phải biết kích thích lòng say mê học tập của các em, đồng thời lưu ý đến điều kiện thực tế ở mỗi lớp, mỗi trường.

2.1. Cách dạy Luật chính tả của TV1.CGD

– Gặp đâu dạy đó.

-Dạy đâu chắc đó.

-Dạy LCT đi liền với dạy cấu trúc ngữ âm của Tiếng

2.2. Quy trình tổ chức dạy học các bài Luật chính tả của chúng tôi Thống nhất quy trình 4 việc

Việc 1. Chiếm lĩnh ngữ âm

Việc 2. Viết (học viết chữ ghi âm)

Việc 3. Đọc (đọc bảng, đọc sách)

Việc 4. Viết chính tả (tổng kiểm tra)

-Gặp tình huống chính tả ở đâu GV cần giúp HS xử lí triệt để ở đấy để làm rõ mối quan hệ âm và chữ.

-Lưu ý HS một số trường hợp đặc biệt.

-Liên tục nhắc lại Luật chính tả cho HS khi đọc và viết chứa luật

2.4. Một số ví dụ minh họa :

a.Dạy luật chính tả e , ê , i :

– Âm /cờ / đứng trước âm / e / , / ê /, / i / phải viết bằng con chữ k ( đọc là ca )

– Âm / gờ / đứng trước âm / e / , / ê /, / i / phải viết bằng con chữ gh ( đọc là gờ kép )

– Âm / ngờ / đứng trước âm / e / , / ê /, / i / phải viết bằng con chữ ngh ( đọc là ngờ kép )

Ví dụ 1: Tuần 4 . Tiết 3,4 .Âm / g /

Việc 2: Mục 2c ( Theo sách thiết kế tập 1 )

T. Em đưa tiếng /ga / vào mô hình .

H. Thực hiện .

g a

T. Em đưa tiếng / ghê / vào mô hình . lưu ý ; lúc này sẽ có hai trường hợp xảy ra

H. thực hiện .

gh ê g ê

– Trường hợp 1 : H viết ghê ( H đã được học trước ) .

– Trường hợp 2 : H viết gê ( H chưa được học trước ) .

T. Giới thiệu luật chính tả ghi âm / g / trước / e / , / ê / .

T. Ở đây có luật chính tả : âm / gờ / đứng trước âm / e / và / ê / phải ghi bằng con chữ gh ( gọi là gờ kép ) . Em nhắc lại .

H1 , H2 , H3 ,…: Âm / gờ / đứng trước âm / e / vag / ê / phải ghi bằng con chữ gh .

H. ( Đồng thanh ) ( T – N – N – T ) .

T. Giới thiệu cách viết chữ gh .

– Chữ gh gồm nét cong kín , nét khuyết dưới ( giống như chữ g ) , nét khuyết trên và nét móc hai đầu .

H. Viết vào bảng con ( 3 – 5 lần ).

T. ( Nhấn mạnh ) Âm / gờ / được ghi bằng hai con chữ khác nhau quen gọi là g

( gờ đơn ) , gh ( gờ kép ).

H. ( Nhắc lại ) Âm / gờ / được ghi bằng hai con chữ khác nhau là g và gh .

T. Em hảy đưa tiếng / ghế / vào mô hình .

H. (Đưa vào mô hình từng tiếng theo yêu cầu của T ) .

g h ế

T. Em đọc lại tiếng vừa viết .

H. – Đọc trơn : / ghế / .

– Đọc phân tích : / ghê / / gờ / – / ê / – / ghê /.

/ ghế / / ghê / – / sắc / – / ghế / .

Ví dụ 3 : Tuần 5 tiết 9 , 10 Âm / ng / việc 2 theo thiết kế Tiếng Việt 1 tập một Công nghệ mục 2c , 2d .

2c . Viết tiếng có âm / ng / .

T . Em đưa âm / ng / vào mô hình trên .

H. Thực hiện .

ng a

T. Em chỉ vào mô hình và đọc , đọc trơn , đọc phân tích .

H. ( Đọc ) / nga / / ngờ / – / a / – / nga / .

2d . Giới thiệu luật chính tả âm / ng /

T. ( Phát âm ) / nghe / .

H1 , H2 , H3 , …..( Phát âm lại ) / nghe /.

H. ( Đồng thanh ) / nghe / .

T. Em phân tích .

H. / nghe / / ngờ / – / e / – / nghe / .

T. Các em lưu ý ở đây có luật chính tả : Khi âm / ngờ / đứng trước nguyên âm / e / ta viết bằng con chữ ngh ( ngờ kép ) . ( T viết mẫu lên bảng ) .

H. ( Đồng thanh ) Âm / ngờ / đứng trước âm / e / ta viết bằng con chữ ngh ( ngờ kép ) . ( T – N – N – T ) .

T. Hướng dẫn viết chữ ngh : gồm một nét móc xuôi , một nét móc hai đầu ( giống chữ n ) , một nét cong kín , một nét khuyết dưới ( giống chữ g ) , Một nét khuyết trên , một nét móc hai đầu ( giống chữ h ) .

T. Em đưa tiếng / nghe / vào mô hình .

H. thực hiện .

ngh e

T. Em chỉ vào mô hình và đọc , đọc trơn và đọc phân tích .

H. ( Đọc ) / nghe / / ngờ / – / e / – / nghe / .

T. Em viết vào bảng con : nga , nghe .

T. Em thêm thanh vào mô hình trên . Viết ở bảng con .

H. nghe nghè nghé nghẻ nghẽ nghẹ .

b.Luật chính tả về âm đệm:

– Âm / cờ / đứng trước âm đệm phải viết bằng con chữ q ( gọi là “cu” ) và âm đệm viết bằng chữ u .

+ Ghi âm / cờ / có ba chữ cái : c , k , q .

+ Âm đệm ghi bằng hai chữ cái : o , u .

Ví dụ 4: Tuần 10 tiết 5, 6 Vần / oe / việc 1 theo thiết kế tiếng việt 1 tập hai Công nghệ mục 1d .

1d . Tìm tiếng mới .

T. ( Giao việc ) Viết tiếng / loe / .

1. T. Thay âm đầu trong tiếng / loe / , em có tiếng gì ? ( Chú ý chia các phụ âm đầu cho từng tổ , H thuộc tổ nào thì dùng phụ âm đầu cho tổ đó ).

H. 1H viết ở bảng lớp , H khác viết ở bảng con . Lần lượt nêu tiếng của mình , chẳng hạn : boe , choe , doe , đoe , goe .

T. Em viết: Khoe .

H. Viết : Khoe ( viết xong , đọc to )

2. T. Em hảy thêm các dấu chấm thanh để tạo ra tiếng mới . Em nhớ luật chính tả về vị trí đặt dấu thanh .

H. Khòe , khóe , khỏe , khõe , khọe .

T. Dấu thanh đặt ở đâu ?

H. Dấu thanh đặt ở chữ ghi âm chính / e / .

T. Em viết: que . Em lưu ý luật chính tả âm / cờ / đứng trước âm đệm .

H. H viết: que .

T. Em hảy thêm thanh vào / que / để tạo ra tiếng mới .

H. què , qué , quẻ , quẽ , quẹ .

T. Luật chính tả về âm đệm .

Khi viết chữ có âm đệm , em cần lưu ý :

-Dấu thanh đặt ở chữ ghi âm chính .

-Âm / cờ / đứng trước âm đệm , ghi bằng chữ q , âm đệm ghi bằng chữ u . như vậy , một âm đệm có thể ghi bằng hai chữ : o hoặc u .

c.Luật chính tả về nguyên âm đôi / ia / , / ua / , / ưa / .

-Luật chính tả âm / ia / :

+ Khi vần không có âm cuối thì viết là ia .

+ Khi vần có âm cuối thì viết là iê , nếu vần có âm đệm thì ta viết là yê .

-Luật chính tả / ua / :

+ Nếu vần không có âm cuối thì nguyên âm / uô / viết bằng ua . ( chú ý : ua là một chữ cái ghi một âm )

*Nếu vần có âm cuối thì viết là uô .

*Nếu vần không có âm cuối thì viết là ua .

-Luật chính tả về / ưa / :

+Theo luật chính tả , âm / ươ / trong vần có âm cuối viết ươ ; ở vần không có âm cuối viết ưa .

Với phương pháp dạy học như trên tôi thấy rất có hiệu quả bản thân tôi xin trình bày một số kinh nghiệm như sau:

Giáo viên phải nắm vững phương pháp về Luật chính tả để đưa các hoạt động một cách hợp lý.

Tích cực tham khảo tài liệu trong và ngoài chương trình, học hỏi đồng nghiệp để nâng cao trình độ, hình thức và phương pháp giảng dạy phù hợp. Bản thân giáo viên phải chịu khó, kiên trì nhắc nhở hằng ngày, tìm các phương pháp phù hợp với độ tuổi trẻ.

Giáo viên cần phải tạo ra nhiều cơ hội cho trẻ được tham gia vào các hoạt động, được tham gia giúp cô những công việc vừa sức, mô hình được làm trên cơ sở hứng thú, theo nhu cầu của trẻ mới đạt hiệu quả cao nhất trong công tác giáo dục trẻ.

GV trường Tiểu học thị trấn Tây Sơn

Đinh Thị Diệu Chi @ 21:15 05/05/2015 Số lượt xem: 311476

Bản Chất Việc Dạy Học Tiếng Việt Lớp 1 Công Nghệ Giáo Dục

Tên gọi “Công nghệ giáo dục” (CGD) xuất hiện ở ViệtNamđầu những năm 90 của thế kỷ trước – tiền thân là chương trình thực nghiệm giáo dục (phổ thông) ra đời trước khi cuộc cải cách giáo dục lần thứ 3(1980) diễn ra. Việc xác định mục tiêu (hướng đi) và hiện đại hóa nền giáo dục bằng (Cách làm) Công nghệ hóa, CGD được coi là một trong những giải pháp có sức thuyết phục đối với nền giáo dục đương thời và được nhiều người mong đợi.

I. BẢN CHẤT CỦA VIỆC DẠY HỌC TIẾNG VIỆT LỚP chúng tôi Về lý luận và thực tiễn Với tư tưởng Công nghệ hóa quá trình giáo dục, CGD coi giáo dục là một quá trình sản xuất đặc biệt. Quá trình dạy học là quá trình làm ra sản phẩm là khái niệm khoa học. Người học – học sinh – là chủ thể của quá trình, tự làm nên sản phẩm (khái niệm) do thầy giáo tổ chức hướng dẫn thông qua mối quan hệ phân công hiệp tác trong “dây chuyền công nghệ”: Thầy thiết kế – Trò thi công! Điều đó làm nên ý tưởng đậm chất kỹ thuật của CGD, sau này được gọi như một khái niệm mới về mặt học thuật là Công nghệ Học (có thể gọi đó là cái lõi của công nghệ giáo dục). Bản chất của công nghệ giáo dục là tổ chức và kiểm soát quá trình dạy học bằng một Quy trình kỹ thuật được xử lý bằng giải pháp nghiệp vụ hay nghiệp vụ sư phạm.Trong dạy học, CGD quan tâm đến Cái và Cách. Thay cho mệnh đề thông thường là dạy học cái gì và dạy học như thế nào, CGD coi Cái/Cách là cốt lõi của nghiệp vụ sư phạm hiện đại. Cái vốn là của có sẵn trong xã hội đương thời. Nghiệp vụ sư phạm chỉ việc chọn lựa, nhặt ra và sắp xếp lại theo định hướng lý thuyết theo 3 nguyên tắc: Phát triển-Chuẩn mực-Tối thiểu. Cái là hình thái tồn tại của Đối tượng cũng đồng thời là Sản phẩm. Cách là quá trình chuyển hóa (chuyển vào trong), được thiết kế bằng một Quy trình kỹ thuật để làm ra Cái (sản phẩm) ở dạng kiến thức khoa học. Cách còn được hiểu là Cách dùng Cái như ở dạng kỹ năng vận dụng hoặc việc lựa chọn, sắp xếp như nói trên. Việc xử lý mối quan hệ Cái/Cách thể hiện trình độ chuyên nghiệp của nghiệp vụ sư phạm, với nhiệm vụ cốt tử là Thiết kế một hệ thống việc làm, mỗi việc là triển khai bằng một chuỗi thao tác: thao tác tư duy (hay thao tác trí óc) và thao tác vật chất (hay thao tác cơ bắp). Để thiết kế quy trình công nghệ dạy học, nhất thiết phải tìm tòi, phát hiện được cái lôgic tồn tại của khái niệm, nhờ đó xác định một cách tường minh các việc làm, thao tác rạch ròi, chính xác nhằm tạo cho việc chiếm lĩnh khái niệm một cách chủ động, dễ dàng kiểm soát được. Vì vậy năng lực thiết kế quy trình công nghệ dạy học một khái niệm hoàn toàn đồng nghĩa với năng lực tìm tòi, phát hiện con đường hình thành khái niệm đó.

CGD thực thi ý tưởng của mình trong việc xây dựng chương trình các môn học. Môn Tiếng Việt 1 là một trong những môn học đã được đời sống nhà trường chấp nhận, coi đó là thành công trong suốt thời gian các trường học 43 tỉnh, thành phố cả nước nhập CGD giai đoạn từ năm 1986 – năm 2000. Vấn đề “Cái” và “Cách” thực sự khởi xướng về mặt Kỹ thuật cho công cuộc “Đổi mới phương pháp dạy học” mà về sau được hiểu đúng đắn đầy đủ hơn là ” Đổi mới Phương pháp-Kỹ thuật dạy học“. Cái là Khái niệm khoa học, ta thường được biết tới như là Kiến thức, Kỹ năng, Thái độ-là đầu ra của Nội dung dạy học. Cách là Phương pháp-Kỹ thuật dạy học. Chúng ta có thể so sánh để thấy được sự khác biệt cả về mặt phương pháp và mặt kỹ thuật giữa ” Thầy giảng giải- Trò ghi nhớ” với một đằng là ” Thầy thiết kế-Trò thi công “.

Bộ sách tiếng Việt lớp 1- Công nghệ giáo dục

2. Về nội dung và nguyên tắc xây dựng chương trình Môn Tiếng Việt lớp chúng tôi là sự chắt lọc thành tựu từ 3 lĩnh vực khoa học (triết học, ngữ âm học, tâm lí học).CGD xác định đối tượng lĩnh hội trong môn Tiếng Việt lớp chúng tôi là Cấu tạo ngữ âm của tiếng Việt. Để chiếm lĩnh đối tượng một cách hiệu quả, CGD đã đặt đối tượng trong một môi trường thuần khiết- chân không về nghĩa. CGD đã xuất phát từ Âm (Âm thanh, âm vị) để đi đến chữ (kí mã), rồi từ chữ quay về âm ( giải mã). Dựa trên những thành quả khoa học hiện đại nhất về ngữ âm học của tác giả Đoàn Thiện Thuật (1977), CGD đã chắt lọc những vấn đề cơ bản nhất nhằm mang đến cho trẻ em không chỉ những kiến thức và kĩ năng cần thiết mà còn giúp trẻ lần đầu tiên đến trường được làm việc một cách khoa học, phát triển khả năng tối ưu của mỗi cá thể, phát triển năng lực làm việc trí óc, năng lực sử dụng tiếng Việt hiện đại một cách có văn hóa thông qua các hoạt động kích thích khả năng tư duy và khái quát hóa . Đối tượng của môn Tiếng Việt lớp chúng tôi được chiếm lĩnh theo con đường từ trừu tượng đến cụ thể, từ đơn giản đến phức tạp.Bản chất việc dạy Tiếng Việt lớp 1. CGD cho học sinh là dạy cho học sinh hệ thống khái niệm của một môn khoa học nhằm giúp các em chiếm lĩnh được tri thức ngữ âm cơ bản và hình thành các kĩ năng Nghe- Nói- Đọc- Viết tương ứng. Lần đầu tiên học sinh biết tiếng là một khối âm thanh toàn vẹn như một “khối liền” được tách ra từ lời nói. Tiếp đó, bằng phát âm, các em biết tiếng giống nhau và tiếng khác nhau hoàn toàn. Sau đó, các em phân biệt các tiếng khác nhau một phần. Đến đây, tiếng được phân tích thành các bộ phận cấu thành: phần đầu, phần vần, thanh. Trên cơ sở đó, các em biết đánh vần một tiếng theo cơ chế hai bước. Học sinh học cách phân tích tiếng tới đơn vị ngữ âm nhỏ nhất, đó là âm vị (gọi tắt là âm). Qua phát âm, các em phân biệt được phụ âm, nguyên âm, xuất hiện theo thứ tự của bảng chữ cái TiếngViệt. Khi nắm được bản chất mỗi âm, các em dùng kí hiệu để ghi lại. Như vậy, con đường chiếm lĩnh đối tượng của CGD đi từ âm đến chữ. Đặc biệt,chương trình Tiếng Việt chúng tôi được xây dựng từ 3 nguyên tắc cơ bản: nguyên tắc phát triển, nguyên tắc chuẩn mực, nguyên tắc tối thiểu. Ba nguyên tắc này xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống Bài học Tiếng Việt chúng tôi Nguyên tắc phát triển đòi hỏi mỗi sản phẩm của thời điểm trước( của một tiết học hay một bài học) đều có mặt trong sản phẩm tiếp sau. Vì thế mà các Bài học trong chương trình Tiếng Việt chúng tôi được xây dựng trên một trật tự tuyến tính lôgic, khoa học: Tiếng, Âm, Vần, Nguyên âm đôi.Nguyên tắc chuẩn mực được thể hiện ở tính chính xác của các khái niệm khoa học, tính chuẩn mực trong cách lựa chọn thuật ngữ để định hướng và tổ chức quá trình phát triển của học sinh.Nguyên tắc tối thiểu yêu cầu việc xác định và lựa chọn một số chất liệu tối thiểu và một số vật liệu tối thiểu cho chất liệu đó nhằm đảm bảo tính vừa sức đối với học sinh lớp 1.3. Về phương pháp và kĩ thuật dạy học Công nghệ giáo dục thiết kế việc dạy học theo một quy trình logic chặt chẽ, bằng hệ thống các biện pháp KTDH với các hình thức tổ chức dạy học hợp lý.Về phương pháp dạy học: Quy trình Công nghệ bao gồm hai công đoạn là công đoạn Lập mẫu và công đoạn Dùng mẫu. Lập mẫu là quá trình T tổ chức cho HS chiếm lĩnh khái niệm trên một vật liệu xác định. Dùng mẫu là luyện tập với vật liệu khác trên cùng một chất liệu với công đoạn Lập mẫu. Để thực hiện quy trình này, T phải sử dụng phương pháp Mẫu. T phải xuất phát từ Mẫu, phân tích Mẫu và vận dụng Mẫu. Mỗi mẫu cơ bản trên tương ứng với quy trình của một tiết Lập mẫu. Dựa trên quy trình của tiết Lập mẫu đó có thể xây dưng nhiều tiết Dùng mẫu. Bên cạnh phương pháp Mẫu còn phải kể đến một phương pháp đặc trưng xuyên suốt quá trình dạy học theo quy trình công nghệ – phương pháp Việc Làm. Đây là phương pháp dạy học hoàn toàn mới, xây dựng trên cơ sở sự hợp tác mới giữa Thầy và Trò. Trong đó, T tổ chức việc học của HS (T không giảng, chỉ giao việc, hướng dẫn, theo dõi, điều chỉnh) thông qua những việc làm cụ thể và những thao tác chuẩn xác do các em tự làm lấy. Điều này thể hiện rất rõ qua toàn bộ thiết kế TV1.CGD.Về kĩ thuật dạy học: Kĩ thuật dạy học đã được chuyển giao thành công nghệ mới. Công nghệ mới chính là quá trình có thể kiểm soát được. Quá trình này cho ra những sản phẩm đồng loạt, bảo đảm độ tin cậy một cách chắc chắn. Đặc biệt quá trình này có thể thực hiện được ở mọi nơi khác nhau bởi tính phân hoá ưu việt của chương trình và cách kiểm soát triệt để tới từng cá thể HS.4. Về cơ chế thức tổ chức và kiểm soát quá trình dạy học Khác với nền giáo dục cổ truyền , CGD đã xây dựng một quy trình lôgic, có sự kiểm soát chặt chẽ thông qua hệ thống Việc làm- thao tác cụ thể, tường minh. Để thiết kế được hệ thống việc làm-thao tác cho việc hình thành- chiếm lĩnh một khái niệm, CGD xác định nhiệm vụ một cách rõ ràng : – Làm rõ các thành phần (đơn vị kiến thức-kỹ năng) cấu thành của khái niệm ấy. – Coi nhiệm vụ hình thành được mỗi đơn vị (kiến thức-kỹ năng) cấu thành ấy là một việc làm – Xem xét trong mỗi việc làm ấy cần những đơn vị việc nhỏ nhất gì, định cho mỗi đơn vị nhỏ nhất ấy một thao tác, sao cho đến thao tác cuối cùng ta hoàn thành xong một việc làm. – Thống kê sắp xếp các việc làm- thao tác vừa xong, ta có một hệ thống việc làm- thao tác cần thiết kế. – Rà soát, tu chỉnh lại hế thống trên để có chính thức một hệ thống việc làm-thao tác tối ưu cho hoạt động dạy học khái niệm.5. Về nhận xét, đánh giá sản phẩm giáo dục CGD nhấn mạnh vấn đề đánh giá sản phẩm giáo dục thông qua hoạt động của HS, đánh giá dựa trên quá trình chứ không phải đánh giá dựa vào kết quả tại một thời điểm. Việc đánh giá không chỉ dừng ở phương diện kiến thức, kĩ năng mà còn xem xét ở góc độ ý thức học tập và phương pháp học tập. Học môn Tiếng Việt chúng tôi H không chỉ ý thức được các hoạt động của chủ thể mà còn tự kiểm soát được quá trình hình thành tri thức. H không chỉ có thói quen làm việc độc lập mà còn hình thành một phương pháp tự học, tự mình chiếm lĩnh kiến thức thông qua hoạt động của chính bản thân. Để đánh giá HS, CGD không chỉ nhìn nhận trong cả quá trình mà còn so sánh đối chiếu với chính cá thể đó ở các thời điểm khác nhau. Sự tiến bộ của một HS phải được so sánh với chính bản thân HS trong cùng một hoạt động. Có 4 mức độ đánh giá đối với quá trình chiếm lĩnh đối tượng của HS: – Mức 1: làm được – Mức 2: làm đúng – Mức 3: làm đẹp – Mức 4: làm nhanh Mức 1, 2 là yêu cầu cơ bản, tối thiểu cần đạt cho 100% học sinh. Mức 3,4 thể hiện sự phân hóa HS rõ nét trong quá trình dạy học.

Ngô Hiền Tuyên

Vụ Giáo dục tiểu học- Bộ Giáo dục và Đào tạo

Hiệu Quả Từ Dạy Học Tiếng Việt Lớp 1 Theo Công Nghệ Giáo Dục

Được tham gia vào một tiết học Tiếng Việt của cô và trò lớp 1A2, trường Tiểu học số 1, thị trấn Tân Uyên, chúng tôi bắt gặp không khí hào hứng của cô và trò nơi đây. Học sinh được thực hành theo các cử chỉ của giáo viên. Mỗi khi giáo viên đưa tay trái ra là các em đọc âm và tay phải là vần. Khi xòe hai bàn tay ra là phân tích, gập hai bàn tay lại là tổng hợp. Cứ như thế, việc học theo phương pháp cô làm mẫu rồi trò làm theo đã kích thích sự chủ động trong tư duy, hành động của học sinh. Phương pháp dạy học mới theo CNGD khơi gợi tính sáng tạo, tự giác tiếp thu bài dễ dàng. Nếu như chương trình học cũ đối với học sinh lớp 1 môn Tiếng Việt đánh vần là chủ yếu thì nay các em được tiếp cận bằng việc phân tích âm, vần qua cử chỉ của 2 tay. Thao tác phụ trợ này tạo sự hứng thú giúp học sinh làm chủ kiến thức và tiếp thu bài dễ dàng hơn.

Giờ học Tiếng Việt của cô và trò lớp 1A2, trường Tiểu học số 1, thị trấn Tân Uyên.

Cô Hoàng Thị Hương – giáo viên chủ nhiệm lớp 1A2 tâm sự: “Đối với giáo viên việc tiếp cận chương trình này không hề đơn giản, tôi phải nghiên cứu kỹ tài liệu, học hỏi đồng nghiệp trau dồi thêm chuyên môn. Trước mỗi giờ lên lớp tôi đều chuẩn bị dụng cụ phụ trợ cho công tác dạy học đồng thời định hướng mục tiêu là phát huy tính chủ động, tự học, phát triển năng lực học sinh. Cùng với đó đưa ra những nhận xét, động viên, góp ý vừa khích lệ nhưng cũng phải khắt khe để nâng tính tự giác của các em trong quá trình học”.

Có thể thấy, phương pháp học môn Tiếng Việt lớp 1 theo CNGD giúp học sinh không chỉ nắm chắc kiến thức ngữ âm, chính tả mà còn tạo hứng thú cho các em đến trường. Sau gần 5 năm áp dụng ở trường Tiểu học số 1, thị trấn Tân Uyên: chất lượng học môn Tiếng Việt của học sinh lớp 1 đã được nâng lên nhiều so với trước, số lượng học sinh xếp loại khá, giỏi môn Tiếng Việt tăng hơn. Năm học 2013-2014, Trường có 108 học sinh theo học lớp 1, trong đó học lực giỏi đạt 70%, khá 27%, trung bình 3%; hạnh kiểm thực hiện đầy đủ 99,8%.

Tìm hiểu được biết, phương pháp dạy học môn Tiếng Việt lớp 1 theo CNGD dành cho học sinh vùng dân tộc thiểu số, bao gồm 4 nội dung: Học vần, viết, đọc và viết chính tả. Học sinh sẽ được học kiến thức từ âm đến chữ, cách phân tích cấu trúc ngữ âm, xác định vị trí âm trong một tiếng gồm âm đầu, âm chính và âm cuối. Để làm tốt điều này, Ban Giám hiệu trường Tiểu học số 1, thị trấn Tân Uyên thường xuyên tạo điều kiện cho giáo viên được tham gia các lớp bồi dưỡng, tập huấn do Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh tổ chức. Đồng thời tăng cường các buổi sinh hoạt chuyên môn theo tổ, nhóm để giáo viên có cơ hội trao đổi, rút kinh nghiệm và góp ý cho nhau. Về phía lãnh đạo nhà trường cũng tăng cường dự giờ, góp ý, tư vấn để kịp thời giải đáp vướng mắc trong quá trình thực hiện chương trình. Ngoài ra, trường cũng chỉ đạo giáo viên tự bồi dưỡng, nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ để từng bước nâng cao tay nghề đáp ứng yêu cầu giảng dạy. Yếu tố tay nghề giỏi cũng là khía cạnh để Nhà trường đưa vào hình thức thi đua khen thưởng vào cuối năm học.

Thầy giáo Lê Sĩ Chiến – Hiệu trưởng trường Tiểu học số 1, thị trấn Tân Uyên cho biết: “Với mục tiêu giúp học sinh lớp 1 có thể đọc thông viết thạo, học đâu chắc đấy. Nhà trường luôn quan tâm để giáo viên có thời gian ứng dụng tốt chương trình dạy học môn Tiếng Việt lớp 1 theo CNGD vào giảng dạy. Trước đây học sinh lớp 1 hoàn thành chương trình vẫn còn một số em chưa đọc thành thạo, chữ viết chưa chuẩn thì chương trình này học sinh nắm chắc luật chính tả cũng như hệ thống cấu trúc ngữ âm Tiếng Việt”

Thành công bước đầu của phương pháp dạy học Tiếng Việt lớp 1 theo CNGD ở trường Tiểu học số 1, thị trấn Tân Uyên là nền tảng để nhà trường từng bước nâng cao chất lượng giáo dục. Qua đó, góp phần thực hiện tốt mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục trên địa bàn huyện nói riêng và tỉnh ta nói chung.