Top 6 # Xem Nhiều Nhất Thực Trạng Dạy Tiếng Anh Ở Việt Nam Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Maytinhlongthanh.com

Thực Trạng Sách Dạy Tiếng Anh Ở Việt Nam

Sách là nguồn cung cấp tri thức và bất tận cho chúng ta ở bất kì lĩnh vực nào. cũng không thể đạt hiệu quả cao nếu thiếu đi những cuốn sách bên mình. Các cuốn sách dạy tiếng Anh ở Việt Nam vô cùng phong phú về loại sách và các kĩ năng cho người học tham khảo. Tuy nhiên những cuốn sách dạy tiếng Anh ở Việt Nam có một số hạn chế nhất định làm ảnh hưởng tới việc học ngoại ngữ này.

Hạn chế trong những cuốn sách dạy tiếng Anh ở Việt Nam

Theo nhiều người đánh giá các loại sách học tiếng Anh ở nước ta mặc dù được thiết kế khá bắt mắt hấp dẫn nhưng nội dung thường không viết theo đặc thù cách học ngôn ngữ của người Việt. Người Việt Nam thường mắc phải những lỗi đặc thù do ngôn ngữ mẹ đẻ trong quá trình học tiếng Anh vì vậy những cuốn sách cần được viết riêng theo kiểu Việt Nam.

Các cuốn sách dạy tiếng Anh ở Việt Nam chưa có sự bám sát trong tương quan giữa tiếng Việt và tiếng Anh. Hệ thống , âm sắc ngữ điệu giữa tiếng Anh và tiếng Việt có sự khác nhau cơ bản vì vậy đòi hỏi các tác giả nhìn nhận chính xác đề xuất bản những cuốn sách cho phù hợp, gần gũi với cách học của người Việt

Một vấn đề gặp phải trong các cuốn sách dạy tiếng Anh ở nước ta thường mắc phải chính là cấu trúc các bài học thường giống nhau. Các bài học thường lặp đi lặp lại các phần từ vựng, , nghe, viết…dẫn đến sự nhàm chán với cả người dạy và học. Các cuốn sách cần được xây dựng theo hướng khác lạ, đêm lại hứng thú cho người học và dạy sẽ đem lại hiệu quả cao hơn

Ngoài ra các cuốn sách dạy ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng của ta thường tập trung quá nhiều vào phần ngữ pháp, điều đó khiến cho kỹ năng khác như nghe, nói, viết bị xem nhẹ làm cho người học quá tập trung vào ngữ pháp, phát triển không đều các kĩ năng còn lại.

Thực Trạng Văn Hóa Học Đường

Văn hoá học đường là một môi trường rất quan trọng để rèn luyện nhân cách và giáo dục thế hệ trẻ những con người sống có hoài bão, có lý tưởng tốt đẹp, vấn đề xây dựng văn hoá học đường phải được coi là trọng tâm và quan trọng nhất trong từng trường học. Nếu môi trường học đường thiếu văn hoá thì không thể làm được chức năng truyền tải những giá trị kiến thức nhân văn cho thế hệ trẻ.

Môi trường giáo dục là nơi đào tạo những lớp người có tri thức để phục vụ xã hội. Thế hệ trẻ là tương lai của đất nước, là giường cột của nước nhà. Môi trường giáo dục lành mạnh là điều kiện tiên quyết để đào tạo thế hệ trẻ trở thành những công dân tốt có tài năng, đạo đức. Trường học là nơi rèn đức, luyện tài, trang bị kiến thức cho học sinh. Trong môi trường này, học sinh phải biết về trách nhiệm và nghĩa vụ của bản thân đối với thầy cô, bạn bè và các mối quan hệ khác.

Vậy thực trạng văn hoá học đường ngày nay như thế nào? Phần lớn thế hệ trẻ trong nhà trường hiện nay có kiến thức rất rộng, nhanh nhạy trong nắm bắt thông tin có sức khoẻ tốt, tinh thần cầu thị trong học tập, khả năng ứng dụng những kiến thức học vào thực tiễn cao, quý trọng thầy cô, đoàn kết với bạn bè sống có kỷ cương, không ngừng phấn đấu vươn nên trong học tập và trong cuộc sống. Nhưng cũng có một bộ phận không nhỏ thế hệ trẻ đang ứng xử một cách vô văn hoá. Nhà tư vấn tâm lý Phạm Thị Thuý cho rằng: Văn hoá ứng xử học đường Việt Nam đã ở vào cấp độ báo động đỏ. Quá nhiều hành vi thiếu văn hoá của cả học sinh và giáo viên. Văn hoá học đường đang xuống cấp nghiêm trọng, là sự xuống cấp đáng sợ nhất của một nền giáo dục. Hiện có rất nhiều người đồng tình với ý kiến này khi cho rằng văn hoá ứng xử học đường đang bị xem nhẹ. Nhà trường chỉ tập trung vào việc dạy kiến thức tự nhiên xã hội mà quên đi giáo dục nhân cách sống cho học sinh. Thực tế cho thấy trong môi trường học đường, nơi văn hoá được coi trọng, đượcxây dựng và phát huy lại đang diễn ra những điều thiếu văn hoá. Trong môi trường giáo dục hai mối quan hệ chính là quan hệ giữa thầy và trò và quan hệ giữa các trò với nhau. Trong đó mối quan hệ giữa thầy và trò là mối quan hệ cốt lõi nhất để xây dựng môi trường giáo dục. Theo thống kê của Bộ giáo dục đào tạo, từ đầu năm học 2009-2010 đến nay cả nước đã xảy ra gần 1600 vụ học sinh đánh nhau ở trong và ngoài trường học, trong đó có các vụ án hình sự ngày càng gia tăng. Học sinh đánh nhau không chỉ dùng chân tay hay cặp sách nữa mà là những hình ảnh các học em sinh mặc đồng phục tuổi từ 10 đến 18 cầm dao, phớ, kiếm và cả súng tự chế hay súng mua chui trên thị trường để “Xử nhau” chỉ vì những lí do rất trẻ con như “nhìn đểu”, không cho chép bài, nói xấu, ghen tuông hoặc chỉ đơn giản là đánh cho bõ ghét.

Không dừng lại ở việc đánh lộn lẫn nhau học trò hiện nay yêu quá sớm, yêu nhiều và quan niệm yêu gắn liền với tình dục đã để lại những hậu quả khó lường. Có những bạn trẻ đứng trước nguy cơ vô sinh hoặc đã bị vô sinh do nạo hút thai ở tuổi dậy thì, sức khoẻ giảm sút, tâm lý tổn thương….Đã có rất nhiều bậc phụ huynh khi đưa con gái vào bệnh viện vì con đau bụng dữ dội mới tá hoả khi nhận được tin dữ con gái họ đã mang thai. Không ít những cô cậuđã phải làm cha, làm mẹ ở độ tuổi “ăn chưa no lo chưa tới” do quan niệm quá thoáng về tình yêu.

Văn hoá ứng xử giữa học trò với nhau ngày nay mang nhiều màu sắc biến tướng. Tình trạng kết bè, kết phái tạo thành băng, hội cũng là vấn đề nhức nhối nó không những làm ảnh hưởng đến môi trường giáo dục mà còn làm cho xã hội quan tâm lo lắng. Hiện tượng lập băng nhóm rồi đi cướp, trấn lột, dằn mặt lẫn nhau, thanh toán ân oán cá nhân của học trò làm gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh đối với các nhà làm công tác giáo dục và quản lí giáo dục.

Từ trước đến nay, chúng ta vẫn nghe nhiều về đạo thầy – trò (Đạo làm thầy và đạo làm trò). Quan hệ thầy trò xưa kia là mối quan hệ đáng kính và đáng chân trọng. Người xưa có câu “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” nghĩa là dạy một chữ cũng là thầy mình mà dạy nửa chữ cũng là thầy và lấy ông thầy làm trung tâm, học trò nhất nhất phải nghe theo, coi thầy là tấm gương để học theo. Cách đây hơn hai nghìn năm Khổng Tử bàn đến mối quan hệ Quân – Sư – Phụ (Vua – thầy – cha)tức là học trò kính thầy như kính vua, kính cha. Những quan niệm coi thầy là cha còn ăn sâu tới nỗi khi thầy chết học trò để tang như để tang cha mẹ. Mỗi khi muốn hỏi thầy hoặc trao đổi vấn đề gì phải thưa gửi lễ phép đàng hoàng. Đứng trước mặt thầy phải chỉnh tề, nhã nhặn, gặp thầy phải cúi chào từ xa, khoanh hai tay trước ngực khi nào thầy trả lời mới được ngửng lên. Nhưng ngày nay học trò của chúng ta đã không thể làm đủ lễ nghi với thầy cô họ lại còn xuyên tạc, làm biến tướng các nghi lễ, thiếu sự tôn trọng với thầy cô, coi thường việc học. Ví dụ như: Cách chào của học trò khi gặp thầy cô, họ vừa đi thậm chí là chạy ù ù qua thầy cô vừa chào “cô ạ”, “thầy ạ” để tiết kiệm từ và nói cho nhanh hơn nữa học trò chào thầy cô (nếu là cô giáo) “Quạ! Quạ!”, (nếu là thầy) “Thạ! Thạ!” rồi cười hô hố rất phản cảm làm cho giáo viên chẳng thể hiểu học trò chào mình hay chào cái gì?. Sau lưng học trò gọi thầy cô mình là ông nọ, bà kia tệ hại hơn là gọi bằng đại từ nhân xưng “nó”. Khi làm bài kiểm tra không tốt bị thầy cho điểm kém không vừa ý mình học trò sẵn sàng lôi bài kiểm tra ra xé trước mặt thầy cô để tỏ thái độ. Có trường hợp trò vì mâu thuẫn nhỏ, xung đột ý kiến hoặc bị giáo viên phạt mà quay ra thù thầy cô, tạt a-xít vào thầy cô, cả kể việc thuê người giết chết thầy cô mình. Nhìn lại xem đây là lối ứng xử gì?

Những năm gần đây hiện tượng tiêu cực trong giáo dục không phải là ít. Những sự việc như học trò biếu phong bì cho thầy cô đổi lại thầy cô cho học trò điểm cao (mặc dù bài làm rất kém) để học trò đỡ tốn công học. Biếu xén thầy cô để tránh bị kỷ luật…nó đã góp phần làm biến tướng và thương mại hoá quan hệ thầy trò, làm cho thầy không còn là thầy, không được tôn trọng, không uy nghiêm, được học trò coi là tấm gương để noi theo học tập, trò cũng chẳng phải trò, chẳng lễ phép, kính trọng thầy và chăm chỉ học hành tu dưỡng. Ở đâu đó chúng ta còn thấy những thầy giáo không đủ tư cách làm tấm gương, những cô giáo thiếu tinh thần trách nhiệm, những học trò bàng quan với việc học với tương lai, cuộc đời, chúng ta có thể thấy rằng việc giáo dục giới trẻ hiện nay đang là vấn đề cấp thiết được cả xã hội quan tâm. Việc xây dựng được môi trường giáo dục mà ở đó thầy đúng nghĩa là thầy, trò đúng nghĩa là trò, trong môi trường giáo dục đó chỉ có tình yêu thương, sự kính trọng, bao dung biết ơn và hoà hiếu đó là mơ ước của tất cả mọi người. Nhưng đáng buồn thay thực trạng văn hoá ứng xử của thế hệ trẻ trong nhà trường đang xuống cấp một cách nghiêm trọng cả về đạo đức lối sống và ý thức sống.

Đã đến lúc chúng ta phải thấy được sự cần thiết của việc giáo dục tư tưởng đạo đức và lối ứng xử có văn hoá cho thế hệ trẻ. Xây dựng một thế hệ trẻ có sức khoẻ, có trí lực, lòng nhiệt huyết, luôn trau dồi về lý tưởng và đạo đức cách mạng. Ngoài ra trong cuộc sống luôn chấp hành nghiêm chỉnh các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước, gương mẫu trong cộng đồng, làm tròn bổn phận của người công dân.

Đinh Thị Thanh Minh

Mô Hình Dạy Và Học Tiếng Anh Ở Việt Nam

Hoàng Hữu Phước, Nhà Ngữ Sử Học

13-10-2020

A – Dẫn nhập thực trạng Việt Nam

B – Phân biệt “Tiếng Mẹ Đẻ” và “Ngoại Ngữ”

C – Quy Trình Học “Tiếng Mẹ Đẻ” Của Nhân Loại

D – Quy Trình Học “Tiếng Mẹ Đẻ” Của Nhân Loại Theo Hoàng Hữu Phước

E – Mô Hình Hoàng Hữu Phước Về Học Tiếng Anh Của Việt Nam Cộng Hòa

F – Kết Luận

A- Dẫn Nhập Thực Trạng Việt Nam

Người Việt Nam từ thời nhận biết ra rằng hóa ra ngoài Tiếng Tàu ” hảo lớ hảo lớ” có thanh âm thuộc loại đứng đầu nhóm tệ hại nhất thế gian – tất nhiên là về mặt phát âm, trong đó có Tiếng Thái Lan và Tiếng Cambodia, v.v. – trên thế giới còn có một thứ ngôn ngữ mà họ gọi trang trọng theo kiểu Hán Việt là ” Anh Văn” và sau này gọi theo kiểu bình dân mà họ lầm tưởng là “thuần Việt” thành ” Tiếng Anh” (chứ không biết đó là kiểu gọi quê mùa nửa nạc nửa mỡ tức “ba rọi” vì “tiếng” có thể là “thuần Việt” nhưng “Anh” thì hết sức thuần Tàu từ kiểu gọi Hán Viêt xưa là “Anh-Cát-Lợi”), cho đến nay chưa hề có bất cứ ai trên cõi ta bà này – dù ở Việt Nam hay ở bất kỳ ngõ ngách nào trên thế giới đầy hoan lạc loạn lạc lầm lạc này – có bất kỳ nghiên cứu nào dù bằng mồm miệng hay bằng chữ viết về các ” mô hình dạy và học Tiếng Anh ở Việt Nam ” cả.

Chiến tranh khốc liệt đã làm Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chỉ có thể có một vài thông dịch viên tiếng Anh phục vụ yêu cầu ngoại giao, tình báo, và truyền thông radio, chứ không thể nào trong chiến tranh lại có đủ lực lượng giáo viên trung học giảng dạy trên toàn quốc cho tất cả các lớp trung học dù cấp trung học chỉ có từ lớp 6 đến lớp 9. Còn ý thức hệ tuyên giáo hoàn toàn tầm bậy tầm bạ phản khoa học rằng ” phải học tiếng nói của Lê Nin – tức Tiếng Nga – để hiểu được chủ nghĩa Mác-Lê” đã khiến sau 75 năm kể từ ngày lập quốc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cho đến khi xóa hẳn tên Việt Nam Cộng Hòa trên bản đồ thế giới ngày 30-4-1975 lập nên nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thống nhất cho đến nay là năm 2020 thì cái học ” tiếng nói của Lê Nin” đã không những ( a) chưa từng tạo nên một lực lượng học sinh/sinh viên “giỏi” Tiếng Nga, mà còn ( b) loại bỏ hẳn Tiếng Nga Tiếng Pháp ra khỏi các chương trình trung học chính quy cấp Nhà Nước để chỉ tập trung cho Tiếng Anh, đã vậy ( c) chưa hề có được một lực lượng lao động trẻ hùng hậu nào thuộc “cổ cồn trắng” hay “cổ cồn xanh” mà “giỏi” được Tiếng Anh cả, cũng như dẫn đến sự thật là ( d) chủ nghĩa Mác-Lê đã chưa từng được “hiểu” do đảng viên không học tiếng nói của Lê Nin nên ngày càng có đông hơn các đại quan đảng viên Cộng Sản chen nhau dành cuộc đời sau chấn song bền vững thay vì phục quốc – tức phục vụ quốc gia – và phụng quốc – tức phụng sự quốc gia – vững bền.

Với sự tổng hợp của hai thực tế sau 30-4-1975 rằng

1) Miền Bắc chưa hề có đủ lực lượng giáo viên Tiếng Anh cho cấp trung học (chỉ đến lớp 9) trước 30-4-1975 – chưa kể lực lượng giáo viên có thể có thì lại chỉ học đến lớp 9 là lên đại học nên không bao giờ có đủ trình độ đúng nghĩa về Tiếng Anh để mà giảng dạy để vừa có thành phẩm để chứng minh năng lực vừa có kinh nghiệm để có tư cách soạn sách giáo khoa Tiếng Anh và ngự ngôi cao trong Bộ Giáo Dục để cho ra các quyết sách về phương pháp dạy và học Tiếng Anh – nay lại phải gánh vác đại sự kéo dãn chương trình theo mô hình trung học đến lớp 12 như Miền Nam, còn

Bài này, do đó, thuộc chuyên ngành Ngữ Sử Học do Hoàng Hữu Phước khai sinh để lần đầu tiên tại Việt Nam và trên thế giới ghi nhận thực tế dạy và học Tiếng Anh ở Việt Nam để làm sử liệu các lối tư duy dựa trên thực tế thành công ở Việt Nam Cộng Hòa, từ đó hình thành cơ sở phản biện nghiêm túc hầu chấn chỉnh cách dạy và học Tiếng Anh ở Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam để nhờ vậy sau 300 năm nữa ( tất tri tam bách dư niên hậu) Việt Nam chắc chắn sẽ có được lực lượng học sinh/sinh viên “giỏi” Tiếng Anh, trở thành lực lượng lao động có trình độ “giỏi” Tiếng Anh có phẩm giá cao trong nền kinh tế quốc dân ngay tại Việt Nam để các nữ nghị sĩ toàn chức sắc thạc sĩ/tiến sĩ Âu Mỹ không để Chủ Tịch Quốc Hội phải hạ mình xin nữ thủ tướng nước bạn rèn giúp Tiếng Anh.

B- Phân Biệt “Tiếng Mẹ Đẻ” Và “Ngoại Ngữ”

Như đã rất nhiều lần nêu lên trong nhiều bài viết cũng trên blog này, tôi hay nhấn mạnh yếu điểm của Tiếng Việt trong tương quan với Tiếng Anh là đối với các từ ngữ mang tính học thuật hàn lâm Âu Mỹ thì việc lệ thuộc quá lớn vào chữ Hán đã biến ý nghĩa chuyển sang Hán-Việt tức sau khi thông qua một ngôn ngữ trung gian là Tiếng Tàu đã không còn mang nội hàm của từ Tiếng Anh nguyên bản (chẳng hạn từ Hán-Việt “dân chủ” dẫn đến ý nghĩa thuần Việt của “dân làm chủ” trong suy nghĩ của 100% người Việt, mà “dân làm chủ” thì hoàn toàn không hề là ý nghĩa của “democracy”, khiến từ tư duy chủ đạo của “dân làm chủ” thuần Việt mà người Việt không thể hiểu nội hàm đúng của “democracy” của Âu Mỹ là gì, v.v.).

Tương tự, ” mother tongue” có ý nghĩa duy nhất đúng là “ngôn ngữ mà một người sử dụng từ thủa ấu thơ đến khi lớn lên” ( the language which a person has grown up speaking from early childhood) hoặc là “ngôn ngữ chính tức first language của người ấy từ lúc sinh ra” ( the language that a person has been exposed to from birth). Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng Hòa không dùng từ ” ngoại ngữ” mà dùng ” sinh ngữ 1” và ” sinh ngữ 2” vì học sinh trung học từ lớp 6 phải chọn Tiếng Anh hay Tiếng Pháp làm ” sinh ngữ 1” và từ lớp 10 phải chọn thêm một ” sinh ngữ 2” giữa Tiếng Anh và Tiếng Pháp khác với “ngoại ngữ” đã chọn trước đó (nếu chọn Tiếng Hoa hoặc Tiếng Nhật chẳng hạn thì phải tự học, chỉ khi thi Tú Tài mới sẽ có đề thi riêng của Bộ Giáo Dục chứ không nằm trong hệ thống giáo dục quốc gia). Như vậy, theo định nghĩa gọi ” mother tongue” là ” first language” thì ” ngoại ngữ” được Việt Nam Cộng Hòa gọi là ” second language” vốn hoàn toàn hợp lý và đúng với ngay cả cách gọi của người Anh Mỹ trong thực tế vì họ cũng gọi ” ngoại ngữ” là ” second language “.

Do ý nghĩa từng từ một của ” mother tongue” là ” mẹ+ngôn ngữ“, người Việt dịch thành ” tiếng mẹ đẻ ” và đây là nguồn cơn của mọi sai lầm tư duy.

” Tiếng Mẹ Đẻ” nếu được nghĩ đó là ” ngôn ngữ của người mẹ sinh ra mình” thì sai ở 5 điểm gồm

( a) mother là “chính/chủ lực” chứ không là “mẹ”,

( b) ” ngôn ngữ của người mẹ sinh ra mình” phải được viết thành ” mother’s language” hay ” mother’s tongue” chứ không phải ” mother tongue “,

( c) mother tongue phải qua quá trình học/sử dụng chính trong cả cuộc đời trong khi tiếng mẹ đẻ trong tư duy người Việt thì lại hàm ý ngôn ngữ đương nhiên mà một người Việt có được dựa vào việc mẹ người ấy nói Tiếng Việt kể cả khi người đó từ nhỏ đã được gởi ra nước khác (hoặc sinh ở nước khác do cha mẹ công tác tại Đại Sứ Quán Việt Nam ở nước khác) và học tập/lớn lên với việc sử dụng ngôn ngữ nước khác ấy,

( d) tại sao phải gọi là tiếng mẹ đẻ mà không là tiếng cha đẻ, và

( e) việc một người giỏi xuất sắc một “ngoại ngữ” và dùng “ngoại ngữ” ấy trong công việc hàng ngày hoàn toàn không có nghĩa đó là “ngôn ngữ chính” (tức “tiếng mẹ đẻ”) của người ấy mà muôn đời vẫn chỉ là “second language” (tức “ngoại ngữ”) của người ấy mà thôi.

Như vậy, quá trình đúng và thuận quy luật tự nhiên thích hợp cho sự phát triển tư duy để một người Việt Nam ở Việt Nam học Tiếng Anh thành công, do đó, là chỉ sau khi người ấy học xong cấp tiểu học ở Việt Nam để có thể yên tâm về “ngôn ngữ chính” ( mother tongue) tức Tiếng Việt của người ấy. “Ngôn ngữ chính” là để hình thành ý thức về ngữ nghĩa, ngữ cảnh, ngữ dụng, ngữ biểu, ngữ cảm, ngữ tạo, và ngữ biến, từ đó làm đà tiếp nhận ngôn ngữ để áp dụng một cách vô thức từ đó có cơ may “giỏi ngoại ngữ”.

Việc học ngoại ngữ, do đó,

– chỉ phát huy tác dụng tối ưu cho học sinh từ lớp 6 trung học;

– nếu học Tiếng Anh từ mẫu giáo đúng bài bản chất lượng cao theo chương trình đặc thù tuyệt đối triệt để trong-môi-trường-hoàn-toàn-không-có-Tiếng-Việt do toàn các chuyên gia thạc sĩ/tiến sĩ trực tiếp giảng dạy thì chỉ là công đoạn đào tạo sẵn lực lượng gián điệp tương lai có ” tiếng mẹ đẻ” khác, có hoạt động nói/viết/suy nghĩ/mớ ngủ/mê sảng/buộc miệng đều bằng ” tiếng mẹ đẻ ” khác ấy, nghĩa là Tiếng Việt trở thành “ngoại ngữ” không quen thuộc, nhằm cài cắm họ vào các quốc gia khác sống y như người bản xứ không thể bị phát hiện;

– nếu học Tiếng Anh từ mẫu giáo hay tiểu học được dạy bởi những giáo viên buộc– phải-dạy-Tiếng-Anh-mẫu-giáo-và-tiểu-học-chỉ-vì-học-kém-hơn-cấp-cử-nhân, trong môi trường sống có đến gần 90% thời gian sử dụng toàn Tiếng Việt, thì tất nhiên không bao giờ là bài bản đúng để có thể kỳ vọng những đứa bé ấy khi “già đầu” sẽ “giỏi ngoại ngữ”.

Trong công tác hàn lâm lĩnh vực ngôn ngữ mà không phân biệt được chính-phụ và “tiếng mẹ đẻ”-“ngoại ngữ” thì muôn đời thất bại.

Các đặc công thủy hoặc đặc công người nhái tinh nhuệ có kỹ năng tuyệt luân sinh tồn dưới sông sâu biển cả trong các nhiệm vụ đặc biệt tấn công/phá hoại/tiêu diệt đối phương. Nhưng họ đương nhiên không bao giờ là cá để ăn tôm cá sống hay xác trôi sông/ngủ say dưới nước/vệ sinh dưới nước/uống nước sông nước biển/sinh hoạt tình dục lưu truyền nòi giống dưới sông dưới biển, chưa kể dù có chiến đấu giỏi bơi nhanh như chớp và lặn sâu lâu không cần dưỡng khí thì họ chỉ được thu nạp vào đội ngũ chỉ khi chứng tỏ có sức khỏe tuyệt luân ở trên bờ. Từ đó suy ra người ta chỉ có thể “giỏi ngoại ngữ” sau khi đã nắm vững “tiếng mẹ đẻ” mother tongue, và vấn đề, do đó, tùy vào quyết định xem ngôn ngữ nào là “tiếng mẹ đẻ” và ngôn ngữ nào là “ngoại ngữ” để có phương pháp học tập phù hợp để trở thành “người Việt giỏi ngoại ngữ” (để phục vụ các ngành kinh tế quốc dân sau này) hoặc “người Việt có tiếng mẹ đẻ không phải Tiếng Việt” (để phục vụ công tác gián điệp sau này – nhưng người Việt ấy ắt phải tuyển chọn từ trẻ em tại các cô nhi viện). Chỉ có người khỏe trên bờ làm người nhái chứ không có chuyện con nhái làm người nhái. Chỉ có chuyện ” người Việt giỏi Tiếng Việt mẹ đẻ thành người giỏi kiệt xuất Tiếng Anh ngoại ngữ” chứ không có chuyện ” người Việt giỏi Tiếng Anh mẹ đẻ làm người giỏi kiệt xuất Tiếng Anh ngoại ngữ”. Đó là cái cơ sở lý luận đặt trên nền tảng của commonsensenesscủa Hoàng Hữu Phước.

Tất cả những người trưởng thành/thương nhân Âu Mỹ và các quan chức các tổ chức quốc tế hoặc cơ quan ngoại giao nước ngoài tại Việt Nam giỏi Tiếng Việt vì họ đã không bao giờ học “ngoại ngữ” Tiếng Việt từ mẫu giáo hay tiểu học, mà chỉ học Tiếng Việt ngoại ngữ sau khi họ đã nắm vững ngôn ngữ chính mother tongue của họ và đặc biệt khi họ đã trưởng thành trong tư duy để làm chủ phương pháp học ngoại ngữ nhanh nhất, bài bản nhất, hiệu quả nhất. Đó là cái cơ sở lý luận đặt trên nền tảng của commonsenseness của Hoàng Hữu Phước.

Cái commonsenseness mà Hoàng Hữu Phước (và các danh nhân nước ngoài – kể cả gã Khổng Khâu tức Trọng Ni – từ thời thượng cổ đến nay) luôn cổ súy/khoe khoang/dạy đời/áp dụng ở đây sẽ phải là:

học sinh Việt Nam ở Việt Nam chỉ có cơ hội giỏi ngoại ngữ Tiếng Anh nếu không bao giờ học ngoại ngữ Tiếng Anh từ cấp mẫu giáo hay cấp tiểu học nghĩa là chỉ học ngoại ngữ Tiếng Anh sau khi đã nắm vững ngôn ngữ chính mother tongue của họ nếu đó là Tiếng Việt hoặc tiếng nào khác không phải Tiếng Anh.

C- Quy Trình Học Tiếng Mẹ Đẻ Của Nhân Loại

Có lần trên báo Tuổi Trẻ (hay Người Lao Động – rất tiếc tôi chưa tìm ra tờ báo cũ để chụp hình bài viết) có đăng bài biện luận của tôi về học ngôn ngữ theo nhà ngôn ngữ học Mỹ giáo sư tiến sĩ Noam Chomsky, người đã từng đến Hà Nôi trong thời gian chiến tranh chống Mỹ còn học thuyết về văn phạm phái sinh của ông đã được lớp tôi nghiên cứu tại Đại Học Văn Khoa Thành phố Hồ Chí Minh, và ngay lập tức có vị độc giả nọ viết thư phản ảnh trên báo rằng chính Noam Chomsky có bảo đó là ” học Tiếng Anh từ năm đầu đời“. Tôi vội viết thêm một bài cho Tuổi Trẻ (hay Người Lao Động?) giải thích rằng vị độc giả ấy hoàn toàn sai vì Noam Chomsky người Mỹ nên đã tiến hành nghiên cứu với hàng ngàn gia đình Mỹ và đương nhiên người Mỹ nói Tiếng Anh nên mô hình sau hoàn toàn đúng khi nói về trẻ em Mỹ học Tiếng Anh (tức “tiếng mẹ đẻ” của các bé ấy) và mô hình đó cũng hoàn toàn trùng lặp vơi quy trình học “tiếng mẹ đẻ” của toàn nhân loại:

nghĩa là trẻ em sơ sinh Việt tại gia đình Việt trên đất Việt có “tiếng mẹ đẻ” là Tiếng Việt sẽ phát triển ngôn ngữ Tiếng Việt cũng tuần tự qua các quy trình trước-sau của Nghe-Nói-Đọc-Viết.

Đó là quy trình tự nhiên về “tiếng mẹ đẻ” của hài nhi. Tiếc là ở Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chỉ có Hoàng Hữu Phước nhận ra đó là quy trình học tiếng mẹ đẻ của trẻ thơ ở bất kỳ quốc gia nào chứ hoàn toàn không phải quy trình học ngoại ngữ của trẻ thơ và người lớn ở bất kỳ quốc gia nào.

D- Quy Trình Học Tiếng Mẹ Đẻ Của Nhân Loại Theo Hoàng Hữu Phước

Cũng vì tất cả người Việt nào đọc Noam Chomsky theo kiểu vị độc giả ba-chớp-ba-nháng trên cũng cứ hễ thấy chữ “Tiếng Anh” là vội quy chụp ngay đó là “ngoại ngữ” rồi quy kết ngay đó là “quy trình học Tiếng Anh”, từ đó dẫn đến tư duy sai rằng tại trường lớp dạy Tiếng Anh tất phải theo quy trình Nghe-Nói-Đọc-Viết ấy của hài nhi Tây, khiến liên tục phạm sai lầm khi xem Viết Tiếng Anh English Writing là công đoạn cuối cùng của tiến trình học Tiếng Anh, nên dành thời gian chủ yếu tập trung cho Luyện Nghe Listening và Luyện Nói Speaking, xem nhẹ Viết Tiếng Anh khiến không bao giờ giỏi Viết Tiếng Anh mà một khi đã kém Viết Tiếng Anh thì không bao giờ giỏi hùng biện Tiếng Anh tức Nói Tiếng Anh Cao Cấp, làm 45 năm sự nghiệp dạy và học Tiếng Anh ở Việt Nam từ ngày thống nhất trở nên hỏng bét:

Tôi buộc phải hợp lý hóa chi tiết cái mô hình hàn lâm của Noam Chomsky như sau dưới tên gọi chính xác ” Mô Hình Học Tiếng Mẹ Đẻ ” để làm rõ cái công thức tối giản của Noam Chomsky để đồng bào Việt hiểu rằng ở Việt Nam toàn bộ các đại quan phụ trách phát triển việc dạy và học Tiếng Anh đã hoàn toàn sai do đần độn không có chút hiểu biết nào để nhận ra sự thật và bản chất vấn đề:

theo đó, hài nhi “nghe” các âm thanh thốt ra từ miệng của mẹ/cha/nhũng người chung quanh, dần dần “lập lại” một cách máy móc mà không hiểu các ý nghĩa từ vựng, thời gian sau sẽ “nói chủ động” câu ngắn mỗi khi có đòi hỏi hoặc muốn kêu gọi, để rồi khi có thêm vài tuổi được cha mẹ dạy cho tập đồ chữ cái/phát âm chữ cái/nhận diện chữ, quy trình ấy dần nâng cao theo cấp lớp học thành viết chữ/đọc câu/đọc bài/chép bài/học thuộc lòng bài/trả bài, rồi trả lời miệng các câu hỏi tức “đọc hiểu”, trả lời viết cho phần “đọc hiểu” để hình thành viết luận văn tức viết thành bài hoàn chỉnh với ba phần nhập đề-thân bài-kết luận. Tất cả cho thấy không có sự tách bạch trước-sau của Nghe-Nói-Đọc-Viết trong phát triển “tiếng mẹ đẻ”của con người từ giai đoạn hài nhi trở lên, mà chính ra là – theo Hoàng Hữu Phước – có sự hòa quyện, bổ sung, song song tồn tại, nâng cấp trước-sau, nâng cấp đồng loạt, của cả 4 kỹ năng Nghe-Nói-Đọc-Viết trong phát triển “tiếng mẹ đẻ” tự nhiên nơi trẻ em.

Tuyệt Đối Đúng: Nghe-Nói-Đọc-Viết chỉ đơn thuần là 4 kỹ năng được liệt kê tuần tự trước-sau theo thứ tự xuất hiện trong quá trình phát triển tự nhiên toàn thời gian đối với “tiếng mẹ đẻ” tại gia đình và trong môi trường sống của con người lúc còn nằm nôi. Thứ tự ấy biến mất sau khi trẻ em tiến vào giai đoạn số 5 của mô hình Hoàng Hữu Phước nghĩa là lúc trẻ em cầm chiếc bút chì để tập đồ chữ cái để đưa 4 kỹ năng ấy vào giai đoạn đồng hành xuyên suốt của hòa quyện, bổ sung, song song tồn tại, nâng cấp trước-sau, nâng cấp đồng loạt.

Tuyệt Đối Sai: Nghe-Nói-Đọc-Viết là công thức tuần tự trước-sau các bước phải theo để một người Việt Nam học ” ngoại ngữ” ở Việt Nam dù mỗi ngày học một ít giờ ” ngoại ngữ” tại lớp học nội/ngoại ở Việt Nam, dù không theo tự nhiên của toàn nhân loại, và dù con người Việt Nam ở Việt Nam ấy còn là học sinh ở Việt Nam hay đã đủ sức tháo nôi vác đi bán ve chai hoặc lui cui lắp ráp nôi cho đứa con mới sinh của anh ta/chị ta tại Việt Nam.

E- Mô Hình Hoàng Hữu Phước Về Học Tiếng Anh Của Việt Nam Cộng Hòa

Như đã nói trong bài trước rằng commonsenseness đối với việc dạy và học Tiếng Anh ở Việt Nam nhất thiết phải là

( a) không được dựa theo sự thăng hoa ý tưởng của những thạc sĩ/tiến sĩ học thiếu năm ở trung học – chỉ đến lớp 9, không giỏi Tiếng Anh, không viết được bất kỳ bài nào ra hồn bằng Tiếng Anh từ khi mang danh thạc sĩ/tiến sĩ mà “cư dân mạng” từng biết đến, không có kinh nghiệm giảng dạy thành công Tiếng Anh dù tại Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa hay Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, mà phải

( b) dựa vào những phương pháp/giáo trình đã được chứng minh thành công trong thời gian dài tại Việt Nam Cộng Hòa vì nó tương tự như các vũ khí chiến thuật và chiến lược tối tân của Mỹ cùng kho ngoại tệ và vàng tịch thu được của “Mỹ Ngụy” mà theo commonsenseness thì “cách mạng” phải ra sức bảo vệ thay vì đốt bỏ.

Mô hình sau là thứ vũ khí tối tân/vàng/ngoại tệ tịch thu được của ” Ngụy Quân & Ngụy Quyền ” lẽ ra đã phải được bảo quản, duy tu, đánh bóng, sử dụng, phát huy, nâng giá bán của thành phẩm trên thị trường quốc tế:

Bộ veston nam đã đạt đến độ tuyệt mỹ của nó như thành tựu cao nhất và cuối cùng của nhân loại nên mọi sự cách tân – nếu có – của bộ veston nam sẽ chỉ là thứ kỳ quái không-tồn-tại-lâu cho hạng celebrity kỳ quái không-tồn-tại-lâu chứ không bao giờ được mặc bởi giới quý tộc nam, giới tỷ phú nam, giới chính khách nam, và giới lãnh đạo doanh nghiệp nam.

Mô hình dạy và học Tiếng Anh thành công ở Việt Nam Cộng Hòa đã đạt đến độ tuyệt hảo như thành tựu cáo nhất và cuối cùng của người Việt Nam nên mọi sự cách tân – nếu có – của phương pháp dạy và học Tiếng Anh ở Việt Nam sẽ chỉ là trò hề kỳ quái tồn tại lâu chừng nào càng đẩy đất nước Việt Nam vào bế tắc không có học sinh/sinh viên/người lao động giỏi Tiếng Anh.

F- Kết Luận

Bài Thí Sinh Lỡ Cơ Hội Vào Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh Vì Chứng Chỉ Tiếng Anh Ư? đã nêu các chi tiết phân loại về các chứng chỉ Tiếng Anh Michigan Proficiency, TOEFL, IELTS và TOEIC cấp cho người học Tiếng Anh ở Việt Nam và tại các nước không-nói-tiếng-Anh tức những nơi mà Tiếng Anh chỉ là ngoại ngữ (second language/foreign language) chứ không là ngôn ngữ chính (mother tongue), phục vụ cho những nhu cầu khác nhau của họ. Trong khi đó, TESOL (tức Teaching English to Speakers of Other Languages – Dạy Tiếng Anh Cho Người Nói Các Ngôn Ngữ Khác) là loại chứng chỉ về phương pháp giảng dạy Tiếng Anh dành cho người dạy Tiếng Anh tại Việt Nam và những quốc gia mà nơi đó Tiếng Anh chỉ là ngoại ngữ (second language/foreign language) chứ không là ngôn ngữ chính (mother tongue). Điều này khẳng quyết luận điểm của Hoàng Hữu Phước là hoàn toàn đúng : không bao giờ có một phương pháp chung cho việc dạy và học Tiếng Anh cho cả người có “tiếng mẹ đẻ” là Tiếng Anh tại những nước nói Tiếng Anh, và cho người có “tiếng mẹ đẻ” không-phải-Tiếng-Anh tại những nước không-có-ngôn-ngữ-chính-là-Tiếng-Anh, chưa kể phương pháp dạy “tiếng mẹ đẻ” cho trẻ em thuần dựa theo tự nhiên phải nghiên-cứu-để-nhận-diện-cái-bài-bản-đang-tự-nhiên-tồn-tại lại hoàn toàn khác với phương pháp dạy “ngoại ngữ” cho người-không-còn-là-hài-nhi thuần dựa theo bài-bản-phải-đề-ra-để-nghiên-cứu-và-áp-dụng.

Tóm lại, Nghe-Nói-Đọc-Viết là quy trình tự nhiên trong phát triển ngôn ngữ chỉ nơi trẻ nằm nôi.

Tóm lại, hiện trạng thê thảm của trình độ Tiếng Anh của học sinh Việt Nam sau 45 năm đầu tư tập trung của Nhà Nước chứng minh rằng Việt Nam chưa từng có các quan chức ra hồn về phát triển dạy/học Tiếng Anh ở Bộ Giáo Dục. Đó là kết luận dựa trên commonseness.

Tóm lại, do chưa từng có bất kỳ nghiên cứu nào ra hồn ở Việt Nam về dạy/học Tiếng Anh ở Việt Nam, cái commenseness đương nhiên sẽ là: mô hình Hoàng Hữu Phước về quy trình học Tiếng Anh ở Việt Nam là duy nhất đúng, duy nhất khả thi, duy nhất có thể chứng minh nếu áp dụng thì năm 2040 tức chỉ sau 20 năm nữa thôi thì tình hình chất lượng Tiếng Anh của học sinh/sinh viên Việt Nam tại Việt Nam sẽ tốt hơn rất nhiều lần cái kết quả chả ra gì của năm 2020 vốn chỉ cho thấy sự thất bại hoàn toàn của việc dạy và học Tiếng Anh chính quy ở Việt Nam. Đó là kết luận dựa trên commonseness.

Tóm lại, do chưa từng có bất kỳ thạc sĩ/tiến sĩ Việt Nam nào ở Việt Nam hay đã tẩu thoát khỏi Việt Nam viết nên bất kỳ thứ gì bằng Tiếng Anh mà chất lượng ” xém” bằng, ngang bằng, hay tốt hơn bài Thư Gởi Giáo Hoàng Francis của Hoàng Hữu Phước, nên Hoàng Hữu Phước là người duy nhất ở Việt Nam có thẩm quyền nói về phương pháp dạy/học Tiếng Anh ở Việt Nam, và tất nhiên Hoàng Hữu Phước không công nhận giá trị bất kỳ các phản biện của bất kỳ ai nhất là khi nó được viết không bằng Tiếng Anh và không bởi người có tư cách nói về dạy/học Tiếng Anh. Đó là kết luận dựa trên commonseness.

Tóm lại, đây là bài viết duy nhất có giá trị thực tiễn về dạy/học Tiếng Anh ở Việt Nam cho người Việt Nam. Đó cũng là kết luận dựa trên commonseness.

Tóm lại, một chính phủ thông minh thực tâm vì nước vì dân và chống tham nhũng luôn đương nhiên sử dụng Hoàng Hữu Phước trong quản lý sự nghiệp phát triển dạy/học Tiếng Anh cho người Việt ở Việt Nam. Đó đương nhiên cũng là kết luận tự nhiên dựa trên commonseness.

Và tóm lại, Hoàng Hữu Phước đã đúng về mọi cái “tóm lại” ở trên. Và đó đương nhiên cũng là kết luận dựa trên commonseness.

Hoàng Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế, Giảng-sư Anh-văn (Nguyên giảng viên English Lexicology, British Civilization & Literature, English Composition, Business English, Interpretation & Translation, và English Grammar tại các trường Cao Đẳng Sư Phạm TP HCM, Đại Học Ngoại Ngữ Hà Nội, Trung Tâm Điều Phối Đại Học Michigan, Trung Tâm Nghiên Cứu & Dịch Thuật Thành phố Hồ Chí Minh, Trung Tâm Ngoại Ngữ -Tin Học FOSCO KM, và Trường Cao Đẳng Doanh Thương Hoa Kỳ, v.v.), Nhà Biện-thuyết, Nghị-sĩ Khóa XIII.

Twitter: @HoangHuuPhuoc (tham gia từ 2008 bằng tiếng Anh), @RealHoangHPhuoc (tham gia từ 2017 bằng tiếng Anh)

Parler: @hoanghuuphuoc (tham gia từ 2020 bằng tiếng Anh)

GAB: @HoangHuuPhuocVietnam (tham gia từ 2020 bằng tiếng Anh)

Anphabe: https://www.anphabe.com/profile/hoanghuuphuoc (tham gia từ 2008 bằng tiếng Việt)

LinkedIn: https://vn.linkedin.com/in/hoanghuuphuoc (tham gia từ 2008 bằng tiếng Anh và Việt)

WordPress (tham gia từ 2013 bằng tiếng Anh và Việt): https://hoanghuuphuocvietnam.wordpress.com

Commonsenseness: Commonsenseness 31-8-2020

Giáo Hoàng Francis: Letter to His Holiness Pope Francis 01-8-2017 (bản dịch Tiếng Việt: Thư Gửi Đức Giáo Hoàng Francis 01-8-2017)

Sự thất bại hoàn toàn của việc dạy và học Tiếng Anh chính quy ở Việt Nam: Nhận Xét Về Sự Thất Bại Của Việc Dạy Và Học Tiếng Anh Chính Quy Ở Việt Nam 23-9-2020

Thạc sĩ/tiến sĩ Việt Nam: Trình Độ Thạc Sĩ – Tiến Sĩ Việt Nam 30-12-2015

Trọng Ni: “Thiên bất sinh Trọng Ni, vạn cổ như trường dạ; Thiên hữu sinh Lăng Tần, thiên tuế như cửu đán“ (Trời mà không sinh ra Trọng Ni, thì vạn kiếp biến đêm dài; Trời đã tạo được Lăng Tần, để vạn thủa hóa hừng đông).

Việt Nam bắt đầu đào tạo giáo viên Tiếng Anh sai bậy: Cao Minh Thì 28-6-2020

Việt Nam Cộng Hòa: Việt Nam Cộng Hòa 13-9-2019

Tại Sao Dạy Tiếng Anh Ở Việt Nam Không Hiệu Quả?

LTS: Chỉ ra một số nguyên nhân cũng như giải pháp nhằm giúp cho việc dạy tiếng Anh ở Việt Nam đạt hiệu quả hơn, Tiến sĩ Lê Quốc Chơn đã gửi tới Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam bài viết chia sẻ. Tòa soạn trân trọng gửi đến độc giả bài viết.

Trước hết chúng ta cần khẳng định mục đích học tiếng Anh là để sử dụng và một phần vì niềm vui. Không ai trong số chúng ta học tiếng Anh để đi thi. Và thi chỉ là một hình thức đánh giá được sử dụng để kiểm tra chất lượng dạy và học mà thôi.

Do đó, việc dạy và học tiếng Anh và hình thức đánh giá hiệu quả dạy – học cần được thực hiện để hướng đến mục đích sử dụng và vẻ đẹp của ngôn ngữ.

Một số ích lợi của học tiếng Anh

Học tiếng Anh quan trọng vì nó góp phần đưa người Việt tiếp xúc với văn hóa thế giới. Giỏi tiếng Anh cũng giúp người học dễ có việc làm hơn và cơ hội trong cuộc sống cũng nhiều hơn, đặc biệt trong thời giao thương toàn cầu như ngày nay.

Hiện nay, các tập đoàn kinh tế đa quốc gia sử dụng tiếng Anh làm ngôn ngữ giao tiếp – ngôn ngữ thương mại. [1]

Và theo nghiên cứu của EF, thì các nước sử dụng tốt tiếng Anh thì có chất lượng cuộc sống tốt hơn (xem Hình 1, 2). [2]

Người Việt học tiếng Anh từ khi nào và hiệu quả ra sao?

Có thể, lần đầu tiên người Việt tiếp xúc với ngôn ngữ Anh là ở thế kỷ 19.

Ông Trương Vĩnh Ký, người nổi tiếng và biết nhiều ngôn ngữ bậc nhất ở Việt Nam, học tiếng Anh không phải ở Việt Nam mà là ở Penang, Malaysia (theo Wikipedia).

Dưới thời Pháp đô hộ, có thể người Việt bắt đầu học tiếng Anh chủ yếu trong trường thông ngôn (collège des interprètes) được thành lập năm 1860. [3]

Trước năm 1959, dưới thời chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, học sinh ở miền Nam có thể chọn học ngoại ngữ là tiếng Anh từ lớp 6 (Trung học đệ nhất cấp) (theo wikipedia). Trong cùng thời kỳ đó ở miền Bắc chỉ một số rất ít nơi nơi dạy tiếng Anh.

Sau khi chiến tranh kết thúc, từ năm 1975 đến khoảng 1986 số lượng học sinh chọn học tiếng anh như ngoại ngữ thứ hai cũng không nhiều.

Khi bắt đầu thời kỳ đổi mới (khoảng năm 1986), tiếng Anh mới thực sự trở thành ngoại ngữ chính ở trường trong hệ thống giáo dục quốc dân và là một trong các môn học quan trọng được chọn làm môn thi ở kỳ thi chuyển cấp.

Tuy nhiên, dường như kết quả dạy và học từ đó đến mãi những năm đầu thế kỷ 21 vẫn không đạt kết quả tốt như mong đợi.

Đó là lí do vì sao Chính Phủ cho thực hiện Đề án ngoại ngữ quốc gia 2008-2020 kèm theo đầu tư gần 10 nghìn tỉ đồng (1400/QĐ-TTg, 2008).

Tuy nhiên, sau 10 năm thực hiện chưa đạt được kết quả như mong muốn và tình trạng dạy và học tiếng Anh không hiệu quả đã được nhắc đến nhiều lần từ các kết quả khảo sát, đánh giá khác nhau:

Theo kết quả kỳ thi trung học phổ thông quốc gia năm 2016, tổng số bài thi môn tiếng Anh là 472.000 bài, nhưng số bài đạt điểm từ 9 đến 10 chỉ chiếm 0.52%, điểm trung bình là 3,48.

Năm 2017, điểm trung bình của thí sinh thi môn tiếng Anh trong kỳ thi trung học phổ thông quốc gia là 4.6.

Và năm 2018, cả nước có 637.335 thí sinh thi môn tiếng Anh trong kỳ thi trung học phổ thông quốc gia và điểm trung bình là 3.91.

Kết quả thi trung học phổ thông quốc gia một phần cho thấy kết quả dạy học tiếng Anh ở trường chưa được như mong muốn. Tuy nhiên cũng cần chú ý rằng, điểm thi còn phụ thuộc vào hình thức đánh giá.

Thi tốt nghiệp trung học phổ thông quốc gia thì chỉ đánh giá một kỹ năng duy nhất – đọc, chứ không đánh giá kỹ năng nghe, nói và viết.

Do đó, kết quả đánh giá kỳ thi trung học phổ thông quốc gia chỉ phản ánh một phần hiệu quả dạy và học ở các cấp học, đặt biệt là trung học phổ thông quốc gia mà thôi.

Theo báo cáo của EF vào năm 2018 thì mức độ thành thạo tiếng Anh của người Việt được xếp hạng ở vị trí 41 trong số 88 quốc gia, thuộc mức độ thông thạo trung bình (EF EPI 2018). Việt Nam đứng trên Nga và dưới Uruguay.

Trong bảng xếp hạng này, tốp ba quốc gia tốt nhất lần lượt là Thụy Điển, Hà Lan và Singapore; hai nước có mức độ thành thạo thấp nhất là Iraq và Lybia.

Theo thông tin từ Đại học Đà Nẵng [4], năm 2012 khả năng sử dụng tiếng Anh của sinh viên còn yếu; chỉ khoảng 20-30% sinh viên có thể theo học tiếng anh ở trường đại học, phần còn lại phải học các lớp dự bị trước khi vào học lớp tiếng anh chính thức.

Theo thông tin từ doanh nghiệp thì trình độ tiếng anh của sinh viên ra trường chưa đáp ứng tốt nhu cầu trong công việc; chủ yếu đọc hiểu được tài liệu, nhưng kỹ năng giao tiếp, viết, và thuyết trình còn yếu. [5]

Tại Hội Nghị “Chuẩn trình độ tiếng Anh tại Trường đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh: Thực trạng và giải pháp” năm 2017, trình độ tiếng Anh của phần đông sinh viên Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cũng chưa đáp ứng được yêu cầu. [6]

Các hình thức đánh giá có phần khác nhau, nhưng phản ánh bức tranh chung về việc dạy và học tiếng Anh không hiệu quả trong hệ thống giáo dục nước ta.

Vậy tại sao dạy và học tiếng Anh ở nước ta không hiệu quả mặc dù đã được đầu tư?

Một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng không hiệu quả

Hình thức đánh giá hiệu quả dạy học chỉ tập trung vào đọc hiểu, nhất là các kỳ thi chuyển cấp. Do đó, cả hệ thống giáo dục chưa đầu tư thật sự hiệu quả để dạy kỹ năng thực hành ngôn ngữ như nghe, nói và viết.

Các thầy cô giáo dạy tiếng Anh chỉ để thi là chính, nên họ không đầu tư kỹ năng khác đặc biệt là nghe và nói.

Nguyên nhân này cũng góp phần làm cho chất lượng giáo viên dạy tiếng Anh thực hành giảm theo thời gian.

Quy mô lớp học đông (trên 35 học sinh/lớp) và không có công nghệ hỗ trợ nên khó có thể dạy kỹ năng thực hành ngôn ngữ hiệu quả.

Động lực học tiếng Anh của học sinh và sinh viên chủ yếu là học để vượt kỳ thi chứ chưa hướng đến kỹ năng thực hành ngôn ngữ trong thực tế.

Tại sao học sinh và sinh viên không học các kỹ năng thực hành ngôn ngữ? Có thể họ muốn giỏi ngoại ngữ thực hành nhưng do áp lực thi cử buộc họ phải học để thi.

Nhu cầu thực tế trong công việc có thực sự sử dụng tiếng Anh không? Tất nhiên người biết ngoại ngữ họ sẽ sử dụng cho công việc, nhưng vấn đề nằm ở chỗ dù không biết ngoại ngữ họ vấn có thể làm việc được và đặc biệt là đáp ứng được các tiêu chuẩn trong tuyển dụng.

Như trong hệ thống hành chính công, Nhà nước quy định các bằng cấp anh văn như A, B, C mà không chú trọng đến năng lực thực hành và đa số các ứng viên đều đáp ứng được.

Có thể thấy rằng, dường như yêu cầu về ngoại ngữ ở nơi làm việc thuộc Nhà nước quản lý chỉ là bằng cấp.

Thực vậy, nghiên cứu của Phó giáo sư, Tiến sĩ Vũ Thị Thanh Hương năm 2012 tại Thái Bình và Đà Nẵng cho thấy trong số 282 công nhân viên chức, thì 70% trong số họ không sử dụng ngoại ngữ trong công việc. [7]

Có phải năng lực học tiếng anh của người Việt thấp không?

Không. Khả năng học ngôn ngữ tự nhiên là luôn sẵn có trong mỗi người bình thường, ai sử dụng được tiếng Việt bình thường thì đều có khả năng học tiếng Anh bình thường.

Những đứa trẻ sống trong môi trường ngôn ngữ nào thì sẽ phát triển khả năng sử dụng ngôn ngữ ấy một cách tự nhiên. [8-10]

Trẻ em gốc Việt sinh ra và lớn lên ở Anh, Mỹ…họ nói tiếng anh lưu loát như người bản ngữ. [11]

Nếu họ sinh ra và lớn lên ở các nước như Pháp, Đức…họ cũng sẽ nói tiếng bản địa lưu loát như người bản địa.

Điều này chứng tỏ, học ngoại ngữ như tiếng Anh không hiệu quả là do nguyên nhân từ cách dạy và cách học trong môi trường giáo dục chứ không phải do khả năng học hạn chế.

Giải pháp nào để học tiếng Anh hiệu quả hơn?

Vì cả người học và người dạy đều hướng đến thi nên cách dễ nhất và nhanh nhất đó là thay đổi hình thức kiểm tra, đánh giá, thi trong toàn hệ thống giáo dục quốc dân.

Hãy kiểm tra, đánh giá, thi tất cả các kỹ năng thực hành ngoại ngữ ở các cấp bậc khác nhau. Tùy theo lứa tuổi và cấp học, chúng ta nên có hình thức dạy và kiểm tra đánh giá như sau:

Ngoài ra, trong tuyển dụng của các cơ quan Nhà nước, ứng viên cần trải qua các kiểm tra đánh giá năng lực thực hành: nghe, nói, đọc, viết. Các doanh nghiệp tư nhân sẽ có cách làm riêng của họ.

Tất nhiên khi thay đổi hình thức kiểm tra đánh giá thi cử, Nhà nước buộc phải có các hình thức đào tạo phát triển nghiệp vụ cho người dạy, đồng thời đầu tư cơ sở vật chất phù hợp với yêu cầu dạy và học tiếng Anh.

Đây là những vấn đề kỹ thuật, không khó để thực hiện. Và câu chuyện về học tiếng Anh có thể bớt nóng hơn trên truyền thông từ đây.

Tài liệu tham khảo

1. Neeley T. Global Business Speaks English. Harvard Business Review [Internet]. 2012; Available from: https://hbr.org/2012/05/global-business-speaks-english

2. McCormick C. Countries with Better English Have Better Economies. Harvard Business Review [Internet]. 2013; Available from: https://hbr.org/2013/11/countries-with-better-english-have-better-economies

3. Van H Van. The current situation and issues of the Teaching of English in Viet Nam. Japanese. 2008;259-301.

4. UDN. Trình độ ngoại ngữ của sinh viên quá yếu [Internet]. 2012 [cited 2018 Dec 4]. Available from: http://www.udn.vn/posts/view/226/239

5. Đức N. Trình độ tiếng Anh của nhiều sinh viên Việt Nam chỉ đủ… viết Facebook [Internet]. 2016 [cited 2018 Dec 4]. Available from: https://ictnews.vn/kinh-doanh/ban-doc-viet/trinh-do-tieng-anh-cua-nhieu-sinh-vien-viet-nam-chi-du-viet-facebook-143978.ict

6. CHINH P. 85% sinh viên chưa đạt chuẩn trình độ tiếng Anh [Internet]. SGGP. 2017 [cited 2018 Dec 4]. Available from: http://www.sggp.org.vn/85-sinh-vien-chua-dat-chuan-trinh-do-tieng-anh-456676.html

7. Hương VTT. Nhu cầu ngoại ngữ và thái độ của công chức đối với chính sách ngoại ngữ hiện nay ở Việt Nam. Ngôn Ngữ. 2012;8:13-25.

8. Alba R, Logan J, Lutz AMY, Stults B. Only English by the Third Generation? Loss and Preservation of the Mother Tongue among the Grandchildren of Contemporary Immigrants. JSTOR. 2017;39(3):467-84.

9. Alba R. Bilingualism Persists, But English Still Dominates [Internet]. Migration Policy Institute. 2005 [cited 2018 Dec 4]. Available from: https://www.migrationpolicy.org/article/bilingualism-persists-english-still-dominates

10. HEDGES C. Growing Up In 2 Languages. NYT [Internet]. 1991; Available from: https://www.nytimes.com/1991/01/06/education/growing-up-in-2-languages.html

11. Tran A. How I never learned to speak Vietnamese. The Seattle Globalist [Internet]. 2014; Available from: http://www.seattleglobalist.com/2014/02/17/how-i-didnt-learn-to-speak-vietnamese/20698