Top 11 # Xem Nhiều Nhất Phương Pháp Dạy Ngữ Pháp Tiếng Anh Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Maytinhlongthanh.com

Phương Pháp Học Tốt Ngữ Pháp Tiếng Anh

Hamdan, là giáo viên của trung tâm tiếng Anh nổi tiếng sẽ chia sẻ một số phương pháp mang tính thực tiễn nhằm giúp học viên học tốt ngữ pháp tiếng Anh – một trong những phần khó nhằn của những người chọn lựa học ngôn ngữ này, từ chính kinh nghiệm của Hamdan.

Chia sẻ của Hamdan khi còn là học viên tại các trung tâm tiếng Anh

Khi tôi học tiếng Anh, các thầy cô giáo đã dành ra rất nhiều thời gian trong lớp chỉ để tập trung vào hình thức của ngôn ngữ, nhưng lại không có ngữ cảnh, hậu quả là khả năng sử dụng tiếng Anh tự nhiên và phong phú của tôi bị ảnh hưởng nhiều từ việc ấy.

Sau đó, tôi đã tự mình trải nghiệm “tiếng Anh tự nhiên” thông qua phim ảnh, âm nhạc và tiểu thuyết. Những nguồi tài liệu này đã giúp tôi tìm ra ý nghĩ và các dạng ngữ pháp trong tiếng Anh. Ngoài ra, còn tạo cho tôi một nền tảng vững chắc hơn để xử lý và học tập ngôn ngữ. Từ đó, bản thân tôi cũng bắt đầu nhận thấy được sự hữu ích từ các cấu trúc mà giáo viên đã tập trung vào giảng dạy trên lớp.

Có thể nói, việc chú ý để cả hình thức và ý nghĩa của ngôn ngữ sẽ có những đóng góp đáng kể vào việc học một ngoại ngữ cá nhân. Nhưng làm thế nào để thực hiện được điều này?

Nhận thấy những lỗ hổng trong kiến thức ngôn ngữ

Khi người học tập trung nghiêm túc vào những thiếu sót trong ngôn ngữ của họ, khi ấy, họ nhận ra những lỗ hổng kiến thức. Thậm chí, họ còn có thể phát hiện ra những lỗ hổng này khi tham gia vào phương pháp Dictogloss – việc học ngữ pháp được lồng ghép trong giao tiếp tiếng Anh, hiện nay phương pháp này được sử dụng rộng rãi ở các trung tâm tiếng Anh.

There are an estimated nine million olive trees in Palestine, which can produce tons of oil. Green ripe olives are picked in October by thousands of Palestinian population participate in the olive harvest. Once the harvest is completed, fresh olives are sent to the press. Olive oil is then exactred from the olives and packaged in yellow gallons. The product is not only sold in Palestine but also shipped around the world.

(Ước tính có khoảng chín triệu cây ô liu ở Palestine, số lượng này có thể sản xuất hàng tấn dầu. Ô liu xanh được thu hoạch vào tháng 10 bởi hàng ngàn nông dân Palestine. Sau khi thu hoạch xong, ô liu tươi được chuyển đến máy ép. Dầu ô liu sau đó được chiết xuất từ ô liu và được đóng gói trong những gallon màu vàng. Sản phẩm không chỉ được bán ở Palestine mà còn được vận chuyển trên phạm vi toàn thế giới).

Giáo viên đã kiểm tra góc độ hiểu biết chung của người học về văn bản, sau đó giáo viên đọc lại nó một lần nữa. Lần này người học sẽ viết ra những từ khóa mà họ nghe được. Học viên được yêu cầu làm việc nhóm để cố gắng xây dựng lại văn bản bằng việc ghi nhớ sao cho càng giống với bản gốc càng tốt. Sau đó, mỗi nhóm sẽ so sánh kết quả của mình với những nhóm khác để đi đến quyết định chung. Cuối cùng, giáo viên sẽ chiếu đoạn văn bản mà học vừa đọc trước đó lên bảng.

Trong suốt hoạt động này, người học đã sử dụng kiến thức ngôn ngữ của mình, cũng như tìm ra ý nghĩa và hình thức của ngôn ngữ. Đây là cách để họ chú ý đến những “khoảng trống” nghe được trong bản ghi chú tiếng Anh của họ. Quá trình này có thể dẫn đến một sự tái cấu trúc trong tổng quan ý thức của họ về hệ thống ngôn ngữ.

Làm thế nào người học có thể tập trung vào ý nghĩa lẫn hình thức?

Mặc dù chúng ta có thể suy ra các quy tắc và hình thức ngôn ngữ nhưng khi giao tiếp để truyền tải một thông điệp, dù trôi chảy đến đâu nhưng chúng ta lại thiếu sự chính xác về mặt ngữ pháp.

A man killed a cat. (Một người đàn ông đã giết con mèo).

A cat was killed by a man. (Một con mèo đã bị giết bởi một người đàn ông).

A man killed cats. (Một người đàn ông đã giết nhiều mèo).

The man may have killed his cats. (Người đàn ông có thể đã giết con mèo của mình).

“Grammaticalisation” là một thuật ngữ được đặt ra bởi Dianne Larsen-Freeman và Marti Anderson trong cuốn sách có tên “Techniques and Principles in Language Teaching” (2011). Thuật ngữ này mang ý nghĩa là người học tập trung đồng thời vào ngữ nghĩa và các dạng ngữ pháp.

Một trong những lớp học dành cho độ tuổi thanh thiếu niên ở cấp độ B1, giáo viên đã đọc to văn bản đã được đơn giản hóa ngữ pháp sau đây:

Jemina – Jeremy – young – rich – couple – live – work – London – Sunday evening – drive – home – Jaguar – see – car – resemble – Porsche – rush – home – discover – Porsche – not there – stolen – feel – terrible – call – police.

(Jemina – Jeremy – trẻ – giàu – cặp vợ chồng – sống – làm việc – London – tối chủ nhật – lái xe – về nhà – Jaguar – thấy – xe – giống – Porsche – vội vàng – nhà – khám phá – Porsche – không ở đó – bị đánh cắp – cảm thấy – khủng khiếp – gọi cảnh sát).

Giáo viên đã yêu cầu học viên kể một câu chuyện bằng cách sử dụng các từ đơn. Sau đó, người dạy viết các từ vựng lên bảng và khuyến khích học viên xây dựng một câu chuyện bằng cách thêm các điểm ngữ pháp cần thiết. Khi kết thúc, giáo viên sẽ hiển thị toàn bộ câu chuyện hoàn chỉnh lên bảng để so sánh với kết quả của học viên.

Jemina and Jeremy were a young, rich couple who lived and worked in London. One Sunday evening, they were driving home in their Jaguar when they saw a car resembling their Porsche. They rushed home and discovered that there; it had been stolen! They felt terrible and called the police.

(Jemina và Jeremy là một cặp vợ chồng trẻ, giàu có, sống và làm việc ở London. Một tối chủ nhật, họ đang lái xe về nhà trong chiếc Jaguar thì thấy một chiếc xe giống chiếc Porsche của họ. Họ vội vã về nhà và phát hiện ra rằng ở đó; nó đã bị đánh cắp! Họ cảm thấy thật khủng khiếp và gọi cho cảnh sát).

Bằng cách này, người học đã cải thiện được sự hiểu biết của họ về các câu tường thuật trong quá khứ thông qua sự chú ý để tìm ra hình thức và ý nghĩa của ngôn ngữ,

Làm thế nào để chuyển thái độ học tập từ thụ động sang tích cực?

Trong cuốn sách: “Implementing the Lexical Approach: Putting Theory into Practice” của Michael Lewis, ông đã chủ trương các hoạt động cho phép người học chú ý và quan sát vào các hình thức ngôn ngữ. Theo ông, những hoạt động này khuyến khích người học chuyển từ học tập thụ động sang học tập tích cực, từ đó đảm bảo sự hiểu biết nhanh hơn và người học xây dựng nền tảng về quy tắc ngữ pháp cẩn thận hơn.

Giáo viên có thể làm điều này bằng cách áp dụng hoạt động “điền từ vào chỗ trống” – dạng bài kiểm tra người học về kiến thức hiện có khi họ dự đoán các cấu trúc ngữ pháp bị thiếu.

Trong một lần học về các cụm động từ ở một nhóm người có trình độ B2, giáo viên đã yêu cầu người học dự đoán các động từ bị thiếu trong một văn bản về Maya Anglou:

Khi hoạt động này kết thúc, người học sẽ so sánh dự đoán của họ với văn bản gốc. Dạng bài tập này giúp học viên nhận ra rằng phần lớn họ sẽ tránh sử dụng các cụm động từ và thích các động từ quen thuộc hơn. Điều này thúc đẩy họ tìm hiểu sâu hơn về sự khác biệt, cũng như ý nghĩa và cách sử dụng ngôn ngữ đích.

Điều gì sẽ xảy ra nếu người học không chú ý đến ngữ pháp?

Nếu không có chú ý đến ngữ pháp, người học vẫn có thể sẽ mắc lỗi mặc dù đã có kinh nghiệm kha khá với các thì động từ trong tiếng Anh. Học viên cũng có thể suy luận chính xác các quy tắc và mô hình ngôn ngữ dựa trên những gì họ đã học, nhưng tránh sử dụng các cấu trúc này trong các tình huống thực tiễn.

Việc thay đổi trạng thái từ “không chú ý” sang “chú ý” và sử dụng ngôn ngữ một cách tự nhiên không phải là một chuyện có thể diễn ra ngay lập tức. Quá trình chuyển đổi có thể mất vài phút, vài giờ hoặc thậm chí là vài ngày, cũng có khi nó chẳng xảy ra. Tuy nhiên, nhiệm vụ của giáo viên chính là giúp người học khám phá cách ngữ pháp hoạt động trong tình huống thực tế.

Phương Pháp Dạy Ngữ Âm Trong Một Tiết Dạy

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI:

PHƢƠNG PHÁP DẠY NGỮ ÂM TRONG MỘT TIẾT DẠY

A.ĐẶT VẤN ĐỀ. Trong sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước và hội nhập với cộng đồng quốc tế. Vì vậy con người phải có tri thức đáp ứng những đòi hỏi cao của đất nước, khẩn trương đổi mới giáo dục – đào tạo, trong đó có đổi mới giáo dục. Chúng ta đang ở thế kỉ 21, thế kỉ của khoa học tiên tiến và hiện đại. Vì vậy đòi hỏi con người phải có tri thức, đáp ứng kịp thời những đòi hỏi ngày càng cao của đất nước. Tiếng Anh có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Việc phổ cập Tiếng Anh ở nước ta ngày nay đang dược Đảng và chính phủ dành cho sự quan tâm đặc biệt. Trong chiến lược dạy học ngoại ngữ việc dạy học Tiếng Anh nói chung, dạy học Tiếng Anh ở trường THCS nói riêng đang đặt ra những nhiệm vụ mới, đòi hỏi người giáo viên phải quán triệt sâu sắc mục đích, đối tượng, nguyên tắc, chương trình dạy và học ngoại ngữ cũng như không ngừng phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ nghiệp vụ sư phạm. Hơn thế nữa, để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, người giáo viên không thể không có lòng yêu nghề, yêu trò, thường xuyên đầu tư suy nghĩ, đề xuất sáng kiến và những thủ pháp lên lớp hiệu quả. Là một giáo viên dạy ngoaị ngữ tôi muốn trao đổi ở đây những nhận thức. Xuất phát từ đặc trưng bộ môn ngoại ngữ, dạy đầy đủ bốn kĩ năng: Nghe- Nói -Đọc – Viết. Nhưng thực tế phương pháp dạy môn Tiếng Anh trong thời gian gần đây các kĩ năng nghe – viết dược các giáo viên luyện kĩ hơn. Nên tôi mạnh dạn trình bày sáng kiến kinh nghiệm “Phương pháp dạy ngữ âm trong một tiết học” và một số thủ thuật dạy , kiểm tra ngữ âm thông qua một số dạng bài tập. Trong phạm vi sáng kiến kinh nghiệm này tôi xin đề cập đến việc dạy và luyện đọc, phát âm chính xác các âm, các từ, cụm từ

Tiếng Anh để phù hợp với tiến trình phát triển của ngôn ngữ hiện đại. Để đạt được mục đích cuối cùng là giúp học sinh phát âm chuẩn và ngữ điệu của câu.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. I. Tình hình chung: Việc dạy và học trong nhà trường hiện nay, đã có nhiều khởi sắc, điêù kiện cơ sở vật chất và thiết bị dạy học đã được trang bị đầy đủ hơn, đội ngũ giáo viên chuẩn hoá cao. Đặc biệt phong trào đổi mới phương pháp dạy học được đẩy mạnh, đa số giáo viên có sáng tạo biết lựa chọn phương pháp phù hợp, phát huy được tính tích cực của học sinh. Nhưng thực tế, như chúng ta đã biết trong rất nhiều năm trước đây, theo phương pháp dạy học cổ truyền ở trong lớp thầygiáo là trung tâm, là người nặng nề về truyền đạt kiến thức, chưa rèn luyện được cho học sinh cách học tập tích cực, cách sử dụng kiến thức, cách nắm bắt vấn đề chủ động. Phương pháp giảng chủ yếu như vậy đã ảnh hưởng sâu sắc đến khả năng nhận thức độc lập của học sinh ở tất cả các môn học nói chung và đặc biệt là môn ngoại ngữ- một môn học có đặc thù riêng là học sinh được rèn luyện độc lập nhiều càng tốt và trong giờ học, học sinh phải được tạo điều kiện sử dụng ngôn ngữ theo chính khả năng của mình. Như vậy, phương pháp đổi mới trong dạy và học ngoại ngữ là phương pháp giúp cho học sinh học tập tích cực. Để đạt được mục đích đó trong một giờ học ngoại ngữ thì giáo viên là người tạo ra cho học sinh thói quen noi theo các chủ điểm tình huống do giáo viên tạo ra cho tiết học diễn ra ” Nhẹ nhàng, sinh động, hiệu quả”. II. Vấn đề cần giải quyết:

Đứng trước một vấn đề dạy và học đó tôi đã suy nghĩ để tìm ra một phương pháp dạy ngữ âm và những việc làm đó tôi đã viết thành phương pháp dạy ngữ âm trong một tiết học. Dạy ngữ âm giúp học sinh tạo ra được không khí học ngoại ngữ, phát âm chuẩn các từ trong bài.Mục đích của việc dạy ngữ âm trong một lớp ngôn ngữ không nhằm làm cho người học có khả năng phát âm tương tự như người bản ngữ vì việc này không thực tế, trừ trường hợp người học có năng khiếu thật đặc biệt và động cơ học rất cao. Mục tiêu dạy ngữ âm là giúp cho người học đạt được một khả năng phát âm đúng ở một mức độ nào đó để có thể truyền đạt được điều họ muốn nói với người khác. III. Phƣơng pháp tiến hành: Nội dung: Các Mác nói:” Con nhện thực hiện thao tác của người thợ dệt, con ong xây tổ sáp làm cho kiến trúc sư phải hổ thẹn. Nhưng một nhà kiến trúc sư có tồi đi chăng nữa thì ngay từ đầu cũng đã khác con ong cừ nhất ở chỗ trước khi dùng sáp xây tổ anh đã tự xây trong đầu mình rôi.”. Con người khác với con vật ở khả năng tư duy và đầu óc suy nghĩ. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của loài người để hình thành xã hội. Trong quá trình học Tiếng Anh, bốn kĩ năng: Nghe, nói, đọc, viết luôn luôn được chú ý đến nhiều hơn nhưng phần luyện âm lại là phần quan trọng nhất trong khi giao tiếp hay thực hành các kĩ năng. Theo tôi, có một số yếu tố ảnh hưởng đến việc phát âm Tiếng Anh. a. Sự chuyển di của tiếng mẹ đẻ: Do tiếng mẹ đẻ của người học có ảnh hưởng đến việc phát âm Tiếng Anh nên người dạy cần có một sự hiểu biết nhất định về hệ thống âm của tiếng mẹ đẻ của người học để có thể tiên đoán những khó khăn cũng như thuận lợi trong việc người học phát âm

Tiếng Anh hầu có thể hướng dẫn và sửa chữa cho người học đọc được các âm khó- phần lớn những âm này không có trong hệ thống âm thanh của tiếng mẹ đẻ. Người Việt học Tiếng Anh thường gặp khó khăn trong việc đọc các âm đầu từ như:/ δ /….các âm /

/, /

/ và / θ /, và các âm cuối từ như: /z/, /s/ và / ή

/ cũng là những âm khó đối với người Việt học Tiếng

Anh. Ngoài ra, trọng âm, ngữ điệu làm thay đổi ngữ nghĩa của từ và câu cũng là những vấn đề mà người việt khong quen trong hệ thống âm vị và ngữ điệu của tiếng việt. b. Tuổi của người học: Người học càng nhỏ tuổi thì càng dễ học nói hơn người lớn tuổi. Theo nghiên cứu, những trẻ em dưới 12 tuổi học nói Tiếng Anh sẽ ít bị ảnh hưởng của giọng nói Tiếng Việt hơn là những người học lớn tuổi hơn. c. Việc tiếp xúc với Tiếng Anh: Cần phải tính đến cả thời gian lẫn mức độ tiếp xúc với Tiếng Anh. Người học càng có nhiều thời gian tiếp xúc với Tiếng Anh thì càng phát âm tốt hơn. Người học cũng sẽ đạt được nhiều tiến bộ hơn nếu được tiếp xúc với mẫu phát âm tốt hoặc được giải thích cặn kẽ về hệ thống âm và cachs phát âm Tiếng Anh. d. Khả năng phát âm bẩm sinh của người học: Nhiều người học có khả năng bẩm sinh trong việc bắt chước và nói được một cách dễ dàng nhưng âm thanh xa lạ với họ. Những người học như thế sẽ tiến bộ nhanh hơn những người không có khả năng tương tự. e. Thái độ và cảm nhận: Thái độ của ngừơi học đối với thứ tiếng đang học cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến việc học phát âm. Thái độ học tập của người học càng tốt thì việc phát âm càng tốt vì họ cố găng bắt chước cho giống cách nói của người bản ngữ.

f. Động cơ học tập của người học và sự quan tâm của họ đối với việc phát âm tốt: Đây là một yếu tố rất quan trọng trong việc dạy phát âm. nếu người học có động cơ phát âm tốt thì họ sẽ đầu tư nhiều thì giờ hơn và nỗ lực hơn trong việc học phát âm. từ đó họ sẽ có nhiều tiến bộ hơn.

C. Kinh Nghiệm Phƣơng Pháp Giảng Dạy . I. Tiến hành thực hiện : 1. Khảo sát đối tƣợng cho học sinh : Tôi lấy đối tượng là học sinh lớp 5 do tôi trực tiếp giảng dạy để nghiên cứu và làm chứng minh . Ban đầu theo dõi tình hình học tập của lớp tôi thấy phần lớn các em rất ngại đọc , nếu đọc được thì còn rất nhiều sai sót và kết quả như sau : – Đối tượng học sinh lớp 5B . – Tổng số : 60 học sinh . – Chất lượng : Giỏi : 15% Khá : 50% TB

: 35%

2. Phƣơng pháp thực hiện : Do đọc không được từ đó nên các em có tâm lý nặng nề không muốn đọc . Là giáo viên phụ trách bộ môn tôi động viên , khuyến khích tạo không khí thoải mái và đặc biệt tôi dung các hình ảnh dụng cụ trực quan hoặc hình ảnh ngộ nghĩnh đưa ra từ hoặc câu tạo cho học sinh thích thú học tập và thích đọc hơn . a, Nguyên âm – Phụ âm

Chỉ cho học sinh nắm vững nguyên âm , phụ âm và một số cách đọc của một số từ khi đứng trước nguyên âm . Eg : The pen

/ δәpen /

Khi phiên âm có dấu / : / thì đọc kéo dài . / I / đọc ngắn như I của Tiếng Việt . / I / đọc kéo dài ii . / ^ / đọc ă và ơ . / δ / đặt đầu lưỡi giữa hai hàm răng . b, Dấu nhấn : Hướng dẫn học sinh cách đọc dấu nhấn – tức âm đó được đọc mạnh hơn . Dấu nhấn được dùng khi từ đó có hơn một âm tiết . Eg : hello

/ hә‟lәu /

 Dấu nhấn thứ nhất và dấu nhấn thứ 2 . Eg : Notebook

/ „nәutbuk /

 Dấu nhấn trong cụm từ và câu . Eg : listen and repeat

/ „lisn en(d) ri‟pi:t /

c, Ngữ điệu Ngữ điệu là ” âm nhạc ” của ngôn ngữ chính là âm lên và xuống khi chúng ta nói . Ngữ điệu rất quan trọng khi chúng ta diễn đạt ngữ nghĩa , đặc biệt trong việc tả thái độ của chúng ta ( ngạc nhiên , vui buồn ….) Hướng dẫn học sinh nhận thức được hai ngữ điệu cơ bản : + Đọc lên giọng : được dùng trong câu hỏi : Yes / No questions : – Is your book big ? – Do you have pets ? + Đọc xuống giọng : được dùng trong câu nói thông thường , mệnh lệnh và câu hỏi : WH – question: – What is your name ?

Tăng Cường Hiệu Quả Dạy Và Học Ngữ Pháp Tiếng Anh Bằng Phương Pháp Dictogloss

Bộ môn Tiếng Anh, Trung tâm Đào tạo Quốc tế, Trường ĐH Thủy lợi

Tóm tắt: Tăng cường chất lượng việc giảng dạy và học tập ngữ pháp tiếng Anh cho sinh viên không chuyên ngữ theo định hướng của Đề án Ngoại ngữ Quốc gia 2020 tại các trường đại học và cao đẳng trên phạm vi cả nước là một vấn đề đang thu hút nhiều quan tâm của các nhà giáo dục. Đã có nhiều nghiên cứu về lĩnh vực này, tuy nhiên, hầu hết vẫn chỉ dừng lại ở việc dạy ngữ pháp tách biệt với bốn kỹ năng còn lại của Tiếng Anh và điều này dẫn đến việc dạy ngữ pháp tại các trường không chuyên ngữ được đánh giá là chưa tạo hứng thú được cho sinh viên và hiệu quả học Tiếng Anh chưa được cao. Bài báo này nhằm giới thiệu phương pháp dictogloss và nêu lên những kết quả của đề tài nghiên cứu về dạy ngữ pháp tiếng Anh theo phương pháp mới, Dictogloss, tại đại học Thủ đô Hà Nội. Trên cơ sở đó, bài báo nêu một số đề xuất có tính chiến lược nhằm nâng cao chất lượng việc dạy và học ngữ pháp tiếng Anh trong các trường đại học, cao đẳng không chuyên ngữ.

Từ khóa: Dictogloss, Ngữ pháp Tiếng Anh.

Keywords: Dictogloss, English Grammar.

Đặt vấn đề

Ngữ pháp Tiếng Anh từ lâu đã bám sâu vào chương trình dạy và học Tiếng Anh ở tất cả các cấp độ, trong đó có cả bậc đại học. Tuy nhiên, có một thực tế là ngữ pháp luôn được coi là hạt nhân trung tâm của việc dạy và học ngoại ngữ. Điều đó dẫn đến việc giáo viên chỉ tập trung dạy ngữ pháp trên lớp (phương pháp truyền thống), lâu dần khiến cho các tiết học Tiếng Anh trở nên nhàm chán. Ngược lại, vào thập niên 1970, sự ra đời của phương pháp Communicative Language Teaching (CLT) dẫn đến xu hướng đánh giá thấp vai trò của ngữ pháp trong việc học ngoại ngữ mặc dù nó là được cho là “một phương tiện để nắm bắt một ngôn ngữ” (Ur, 1991, p.78). Tuy nhiên, nếu không có ngữ pháp, sẽ rất khó khăn cho người học Tiếng Anh để đạt được sự chính xác trong khi sử dụng Tiếng Anh (Francis, 2004). Do vậy, các nhà giáo dục đi đến thống nhất dạy ngữ pháp lồng trong giao tiếp mới là phương pháp hiệu quả. Và Dictogloss là một kỹ thuật giảng dạy đáp ứng được yêu cầu đó. Đây là động lực chính cho tác giả tiến hành nghiên cứu áp dụng Dictogloss vào việc dạy Tiếng Anh cho các sinh viên không chuyên trường Đại học Thủ Đô Hà Nội.

Nghiên cứu này hướng tới việc tìm kiếm câu trả lời cho các vấn đề sau:

Dictogloss có ảnh hưởng thế nào đến khả năng sử dụng ngữ pháp Tiếng Anh trong giao tiếp?

Dictgloss có tác động như thế nào đến hứng thú học ngữ pháp Tiếng Anh so với phương pháp truyền thống?

Cơ sở lý luận

Năng lực Ngữ pháp Tiếng Anh (Grammatical competence) là một trong bốn lĩnh vực lý thuyết năng lực giao tiếp do Canale và Swain (Gao, 2001) khởi xướng. Orwig (1999) định nghĩa khả năng sử dụng Ngữ pháp Tiếng Anh trong giao tiếp là khả năng nhận biết và tạo ra các cấu trúc ngữ pháp của một ngôn ngữ và sử dụng chúng một cách hiệu quả trong giao tiếp.

Trong mô hình tiêu chuẩn do Wajnryb (1990) đề xuất, dictogloss bao gồm bốn bước: Chuẩn bị, nghe chép chính tả, tái cấu trúc, và chỉnh sửa.

Bước 2 – Nghe chép chính tả – Các đoạn nghe nên được đọc ở tốc độ bình thường hai lần hoặc ba lần. Trong lần nghe đầu tiên, sinh viên chỉ tập trung nghe những đại ý của văn bản. Lần thứ hai, họ ghi chép của các từ khóa để từ đó xây dựng lại câu và văn bản.

Bước 3 – Tái cấu trúc – Sinh viên làm việc nhóm (4-5 sinh viên 1 nhóm) xây dựng lại văn bản dựa trên các từ khóa ghi chép được.

Bước 4 – Chỉnh sửa – Với sự giúp đỡ của giáo viên, sinh viên được yêu cầu phải phân tích những điểm tương đồng và khác biệt với phiên bản gốc, và sau đó sửa văn bản của họ.

Các biến thể của Dictogloss

Ngoài các các bước dictogloss chuẩn trên, Jacob and Small (2003) có đề xuất một số biến thể của dictogloss.

Student-controlled Dictation: Học sinh làm việc trực tiếp với giáo viên khi họ điều chỉnh đài/loa. Họ có thể yêu cầu các giáo viên để dừng và tua.

Student – student Dictation: Thay vì các giáo viên đọc văn bản, sinh viên mà thay phiên nhau để đọc chép văn bản.

Dictogloss summaries: Học sinh tập trung vào những ý chính của văn bản gốc và làm việc với bạn học để tóm tắt những điểm chính của văn bản.

Scrambled sentence dictogloss: Giáo viên trộn các câu trong văn bản trước khi cung cấp cho sinh viên và học viên phải xây dựng lại những gì họ nghe trước và sau đó xếp các câu theo một trật tự logic.

Elaboration dictogloss: Học sinh không chỉ xây dựng lại mà còn cải thiện văn bản. Sau khi ghi chép, sinh viên tái tạo lại văn bản và sau đó thêm các chi tiết. Ví dụ, giáo viên đọc: “Hôm nay, nhiều học sinh sử dụng xe đạp.” Các sinh viên có thể thêm: “Ngày nay, nhiều sinh viên đại học của Nhật Bản sử dụng xe đạp.” Hoặc “Hôm nay, nhiều học sinh sử dụng xe đạp. . Điều này làm giảm ô nhiễm không khí và giúp sinh viên ở phù hợp “( Jacob and Small, 2003, p.12)

Dictogloss opinion: Học sinh đưa ra ý kiến ​​cá nhân của họ trên ý tưởng của tác giả sau khi xây dựng lại văn bản.

Picture dictation: Có thể thực hiện bằng cách hoàn thành một sơ đồ hoặc bản vẽ. Sau đó, các học sinh so sánh bản vẽ của họ với các bạn và với bản gốc.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu được thực hiện bằng phương pháp thực nghiệm trong vòng 12 tuần theo chu trình nghiên cứu gồm 7 bước của McBride & Sckotak (1989) (Biểu đồ 1).

Biểu đồ 1. Chu trình nghiên cứu 7 bước của McBride & Sckotak (1989)

Đối tượng nghiên cứu

Hai mươi tám sinh viên năm thứ hai chuyên ngành Toán tại trường Đại học Thủ đô Hà Nội đã được lựa chọn để tham gia vào nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu đã trải qua hai phần đầu tiên của khóa học (Tiếng Anh 1 và 2) trong học kỳ trước đó. Do đó, họ nắm được một số kỹ năng nghe và các điểm ngữ pháp. Tuy nhiên, tất cả các bài tập nghe ở dạng câu hỏi lựa chọn đúng / sai và trắc nghiệm thay vì kỹ năng ghi chép và kết quả kiểm tra ngữ pháp của họ trong bài kiểm tra đầu vào khá thấp.

Hai giáo viên có kinh nghiệm trong bộ môn tiếng Anh đã được mời đến nghiên cứu. Mỗi giáo viên được yêu cầu dự giờ một bài có sử dụng dictogloss. Họ quan sát và đưa ra nhận xét về các bài học cũng như một số đề xuất.

Công cụ thu thập số liệu

Bốn công cụ được sử dụng bao gồm Quan sát lớp học, các bài kiểm tra, câu hỏi khảo sát và phỏng vấn.

Bài kiểm tra ban đầu (pre-test)

Gần 50% số sinh viên đạt điểm trong khoảng 5-6,9, sau đó là tỷ lệ học sinh yếu (21,4%) trong khi số điểm khá, tốt, và xuất sắc chỉ chiếm lần lượt là 10,7%, 14,3%, và 7.2 % (Biểu đồ 2). Nhìn chung, năng lực ngữ pháp của sinh viên là tương đối thấp với tổng số 67,8% sinh viên.

Biểu đồ 2: Kết quả của sinh viên trong bài kiểm tra ban đầu

Đáng chú ý, đối tượng tham gia làm khá tốt với bài trắc nghiệm bốn lựa chọn, nhưng lại yếu trong các dạng bài khác.

Phiếu điều tra số 1 (Pre-prequestionnaire) Dữ liệu đầu ra Bài kiểm tra đầu ra (post-test)

Ngoài 10,7% sinh viên có chút khó khăn với các bài tập ngữ pháp, một số lượng lớn trong số họ thừa nhận rằng ngữ pháp không dễ dàng chút nào; 25% nhận thấy ngữ pháp rất khó khăn. Các vấn đề “bởi vì tôi lười biếng trong việc học thuộc lòng cấu trúc ngữ pháp” cũng làm dấy lên một vấn đề: Học sinh luôn luôn cho rằng để học ngữ pháp tiếng Anh, họ phải ngồi và học thuộc lòng các quy tắc ngữ pháp.

Phiếu điều tra số 2 (Post-questonnaire)

Các phân tích cũng chỉ ra rằng giáo viên của họ thường xuyên chọn phương pháp dạy ngữ pháp tách biệt là phương pháp chính (71,40%), tiếp theo là ngữ pháp giảng dạy thông qua các kỹ năng khác với 25,0%. May mắn thay, chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ của giáo viên (khoảng 3,6%) bỏ qua ngữ pháp trong bài học. Các đối tượng cảm thấy chán nản vì những phương pháp không thích hợp và việc họ không thể áp dụng các quy tắc vào các bài tập và giao tiếp.

Tỷ lệ phần trăm của các điểm yếu, trung bình, và tốt có xu hướng giảm trong khi đó điểm khá và xuất sắc tăng đáng kể. Tỷ lệ điểm yếu giảm mạnh nhất từ ​​21% đến 7%, tiếp theo là mức điểm trung bình (giảm 7,1%). Sự sụt giảm này cho thấy sự thay đổi tích cực trong năng lực ngữ pháp của sinh viên.

Kết quả phân tích cho thấy số lượng sinh viên có thể nhận thấy sự tiến bộ của mình khá lớn và chỉ có 17.5% chưa thoải mãn với những kết quả thu được từ khóa học.

Cuộc phỏng vấn dành cho sinh viên

Gần một nửa trong số các câu trả lời cho thấy học sinh cảm thấy khá chủ động trong việc học ngữ pháp và làm bài tập ngữ pháp vì họ hiểu quy tắc. Đáng chú ý, việc sử dụng dictogloss giúp giảm bớt sự sợ hãi của ngữ pháp học tập và gần 30% sinh viên tăng sự tự chủ của họ trong việc làm thêm các bài tập ngữ pháp ở nhà để cải thiện khả năng ngữ pháp của mình.

Những ảnh hưởng của dictogloss về năng lực ngữ pháp của sinh viên là không giống nhau. Phần lớn đồng ý rằng dictogloss là một kỹ thuật tốt để dạy ngữ pháp, mặc dù một vài sinh viên cho rằng một số bước digtogloss hơi khó. Đối với sinh viên học tốt hơn, họ cảm thấy khá hài lòng với dictogloss. Họ thích dictogloss vì phương pháp này giúp họ phát triển một loạt các kỹ năng như nghe, ghi chép, viết, và thậm chí nói Tiếng Anh, không chỉ dùng lại ở năng lực ngữ pháp.

Thứ nhất, mặc dù nhận được phản hồi tích cực từ các sinh viên, dictogloss vẫn khuyến cáo không nên được sử dụng quá nhiều trong toàn bộ khóa học. Điều này sẽ dễ dàng gây ra sự nhàm chán cho người học. Dictogloss chỉ được sử dụng như một kỹ thuật thay thế để dạy ngữ pháp. Việc sử dụng dictogloss hay không phụ thuộc nhiều vào các đặc điểm của khóa học, các văn bản sách và các tài liệu có sẵn, và học sinh. Hơn nữa, dictogloss được đánh giá là khá phức tạp và khó khăn để được tiến hành (Dunn, A, 1993). Vì vậy, khi các giáo viên quyết định sử dụng dictogloss, cần đảm bảo hiểu sâu sắc các kỹ thuật trước khi sử dụng vào các bài học. Ngoài ra, tất cả các tài liệu cần được chuẩn bị tốt từ trước; nếu không thì giáo viên sẽ dễ dàng thất bại trong các bài giảng.

Thứ hai, áp dụng dictoloss vào những bài học sẽ tốn thời gian nếu các kỹ năng chuẩn bị cho học sinh bị bỏ qua. Việc chuẩn bị này bao gồm kĩ năng ghi chép, kỹ năng nghe, và làm việc nhóm để sinh viên có thể sẵn sàng. Nếu có thể, những kỹ năng cần phải được xây dựng dần dần trong các khóa học trước đó. Từ vựng nên được giao cho sinh viên với phát âm rõ ràng. Và từ vựng phải được đọc to lặp đi lặp lại một vài lần và giải thích cách sử dụng trong ngữ cảnh để đảm bảo tất cả sinh viên có thể thụ đắc một cách tự nhiên.

Hơn nữa, kích thước của các lớp học phải đủ nhỏ để các giáo viên có nhiều thời gian hơn để quan tâm tới tất cả các nhóm. Bằng cách đó, giáo viên cũng có thể kiểm tra được nhiều đoạn văn bản nhóm xây dựng lại. Mỗi nhóm nên bao gồm không quá năm sinh viên với nhiều trình độ khác nhau để họ có thể giúp đỡ lẫn nhau. Sự tham gia bình đẳng của các thành viên nhóm nên được đánh giá.

Cuối cùng, trong giai đoạn này, tác giả nghiên cứu phát hiện ra rằng sự thay đổi liên tục của các biến thể dictogloss theo nội dung bài học giúp tránh nhự đơn điệu nhàm chán. Một số biến thể làm cho người học chủ động hơn trong các lớp học như as student-controlled dictation, picture dictation or student-student dictation. Ghi chép chính tả theo video cũng là một ý tưởng hay.

Nhiều nhà giáo dục ngôn ngữ có lẽ sẽ đồng ý rằng việc áp dụng dictogloss vào giảng dạy ngữ pháp mang lại nhiều triển vọng. Trên cơ sở lý thuyết về ngữ pháp, dictogloss, và hứng thú, tác giả nghiên cứu này đã tiến hành nghiên cứu trong vòng 12 tuần, điều tra xem liệu sự kết hợp của kỹ thuật này vào bài giảng ngữ pháp Tiếng Anh có mang lại hiệu quả tích cực hay không.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Các kết quả nghiên cứu cho thấy rằng các sinh viên trải qua khóa học ngữ pháp có sử dụng dictogloss có sự tiến bộ đáng ghi nhận về năng lực ngữ pháp của họ. Dù còn tồn tại một số khó khăn, song việc sử dụng dictogloss trong các bài giảng ngữ pháp làm cho việc học ít căng thẳng hơn và hấp dẫn hơn, giúp giữ cho sinh viên tìm thấy động lực học ngữ pháp.

Nhận thức được những thách thức của việc kết hợp dictogloss vào bài học, tác giả nghiên cứu này cho rằng cần có thêm nghiên cứu về tác động của dictogloss đối với việc tăng cường năng lực ngữ pháp cho sinh viên. Bên cạnh đó, từ vựng, nghe, nói và viết cũng là những lĩnh vực tiềm năng cho những nhà nghiên cứu quan tâm đến Dictogloss.

Dunn, A. (1993). Dictogloss – When the Words Get in the Way. TESOL in Context, 3(2), 21-23. Retrieved from http://search.informit.com.au/documentSummary;dn=764318201568734;res=IELHSS

Francis J. Noonan III. (2004). Teaching ESL Students to “Notice” Grammar. The Internet TESL Journal. 10 ( 7). Retrieved January 25 from http://iteslj.org/Techniques/Noonan-Noticing.html

Gao, C. Z. (2001). Second language learning and the teaching of grammar. Education, 2, 326- 336.

Harmer, J. (2001). The Practice of English Language (3rd ed.). London: Longman

Jacobs, G & Small, J. (2003). Combining Dictogloss and Cooperative Learning to Promote Language Learning. The reading Matrix, 3 (1), 1-15.

Mc Bride, R & Schostak, J. (1989). Action research. Retrieved on March 30, 2013 from http://www.enquirylearning.net/ELU/Issues/Research/Res1Ch4.html

Nassaji, H. & Fotos, S. (2011). Teaching grammar in Second Language classrooms: Integrating Form-Focused Instruction in Communicative Context. NY: Routledge.

Orwig, Carol J. (1999). Guidelines for a Language and Culture Learning Program. Retrieved February 6th, 2014 from http://www-01.sil.org/lingualinks/languagelearning/OtherResources/GudlnsFrALnggAndCltrLrnngPrgrm/contents.htm

Oxenden, C. (2011). New English File (pre-intermediate). 2nd ed. Oxford University Press.

Redston, C., & Cunningham, G. (2005). Face2face (preintermediate). NY: Cambridge University Press.

Ur, P. (1991). A course in Language Teaching. Edinburgh: Cambridge University Press.

Vasiljevic, Zorana. (2010). Dictogloss as an Interactive Method of Teaching Listening Comprehension to L2 Learners. English Language Teaching. 3(1). http://dx.doi.org/10.5539/elt.v3n1p41

Wajnryb, Ruth (1990). Grammar dictation. Oxford: Oxford University Press.

Phương Pháp Dạy Ngữ Âm Tiếng Anh Cho Học Sinh Tiểu Học

g phiên âm Tiếng Anh quá mới lạ và phức tạp. Trong Tiếng Việt, chỉ cần học thuộc bảng chữ cái là cơ bản học sinh có thể phát âm được tất cả các từ nhưng trong Tiếng Anh có rất ít mối liên hệ giữa bảng chữ cái và cách phiên âm. Chỉ có 26 chữ cái nhưng trong khi đó lại có tới 44 âm gồm cả nguyên âm và phụ âm. Một chữ cái có thể được đọc bằng 2 âm (th: /θ/hoặc /ð/). Ngược lại nhiều từ có thể phát cùng âm giống nhau (phone / fun / laugh ). Bên cạnh đó, một vài âm trong Tiếng Anh không tồn tại trong tiếng việt nên học sinh gặp rất nhiều khó khăn khi phát những âm này. Khi gặp khó khăn, học sinh ngại phát âm vì sợ sai dẫn đến ngại đọc, ngại nói; càng ít đọc, ít nói thì càng đọc sai, nói sai. III. PHƯƠNG PHÁP DẠY NGỮ ÂM 1. Quy trình của bài dạy ngữ âm Một giờ học ngữ âm sẽ thực sự hiệu quả nếu giáo viên thực hiện theo quy trình dạy rõ ràng, cụ thể làm cho các âm tiết trở nên dễ dàng tiếp nhận đối với học sinh. Bởi vậy, một bài dạy ngữ âm nên chia thành 3 phần như sau: 1.1. Presentation - Giáo viên đọc từ có chứa âm đang học, học sinh lắng nghe. Ví dụ: Dạy âm /ɔ:/ giáo viên đoc : draw (Unit 12 lesson 2, SGK Tiếng Anh 5, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam) - Giáo viên hướng mặt về phía học sinh đọc âm (ví dụ: /ɔ:/) một vài lần cốt để học sinh có thể nghe rõ và quan sát được cử động miệng, môi, răng, lưỡi của giáo viên khi phát âm này. - Giáo viên đọc một vài từ có chứa âm đang học, học sinh đọc theo. Ví dụ: law/ saw/ paw - Giáo viên viết các từ lên bảng. - Giáo viên miêu tả cách phát âm (vị trí của lưỡi, môi, răng). Giáo viên treo sơ đồ biểu thị vị trí của lưỡi, môi, răng khi phát âm và giảng giải cụ thể sao cho học sinh hiểu. - Yêu cầu học sinh đồng thanh nhắc lại các từ trên bảng, (ví dụ: law, saw, paw) sau đó gọi từng nhóm nhắc lại. Cuối cùng giáo viên gọi một số học sinh nhắc lại. - Theo đúng tiến trình trên, giáo viên giới thiệu âm thứ hai. Ví dụ: Giáo viên thực hiện theo quy trình trên khi giới thiệu âm /ɑ:/ (Unit 12 lesson 2, Tiếng Anh 5) - So sánh đối chiếu sự khác nhau khi phát âm thứ hai với âm thứ nhất. Ví dụ: giáo viên giải thích sự khác biệt về vị trí lưỡi, môi, răng khi phát âm hai âm /ɔ:/ và /ɑ:/ - Học sinh chia thành các nhóm, nhắc lại hai âm (isolated sounds) theo giáo viên hoặc theo băng. 1.2. Practice Trong phần này học sinh nên được thực hành phát âm mới theo thứ tự từ từ (isolated words) đến cụm từ (short phrases) đến câu (sentences) và đến đoạn hội thoại (dialogue). - Giáo viên đọc các cặp từ và học sinh lắng nghe để nhận diện âm mà giáo viên đọc là âm nào. Sau đó lần lượt cả lớp nhắc lại các cặp từ, rồi nhắc lại theo nhóm và cuối cùng nhắc lại cá nhân. Ví dụ: Khi dạy 2 âm /eʊ/ và /ɒ/ (Unit 18 Lesson 2, SGK Tiếng Anh lớp 5, nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam) giáo viên đọc các cặp từ: go/ got; no/ not; close/ lot Häc sinh l¾ng nghe vµ ®äc l¹i theo gi¸o viªn. - Học sinh thực hành đọc các cụm từ có chứa âm đang học. Ví dụ: go home /a hot holliday/ lots of ropes - Học sinh thực hành đọc các câu (trong câu có nhiều từ chứa âm đang học). Ví dụ: Well, it's hot. It hasn't got many farms./ How do you go to your hometown? - Học sinh nhìn, nghe và nhắc lại theo giáo viên hoặc theo băng một đoạn hội thoại ngắn trong đó có nhiều từ chứa âm đang học. Các bài hội thoại này thường đã có trong sách giáo khoa. - Học sinh trình bày lại đoạn hội thoại theo cặp (sau khi đã đọc thành thạo nếu còn thời gian học sinh có thể thêm một vài từ có chứa âm đang học vào đoạn hội thoại nhưng các từ đó phải phù hợp nghĩa với bài). - Trong quá trình học sinh thực hành, Giáo viên theo dõi và chưa kịp thời nếu học sinh mắc lỗi. 1.3. Production Giáo viên cung cấp cho học sinh trò chơi hoặc các hoạt động để cũng cố lại kiến thức. Một số trò chơi đơn giản nhưng hiệu quả và dễ thực hiện như: Silent Sounds: Ví du: khi dạy hai âm /e/ và /æ/, giáo viên viết lên bảng: Giáo viên hướng mặt về phía học sinh, phát âm nhưng không thành tiếng. Học sinh quan sát cử động miệng của giáo viên (cử động của lưỡi, môi, răng) và đoán giáo viên đang nói âm gì và chỉ vào âm đó trên bảng. Sau đó giáo viên chia học sinh thành các nhóm từ 2 đến 3 người cùng chơi như trên. - Same or Different: Giáo viên viết phiên âm quốc tế lên bảng (ví dụ: /I/) Giáo viên nói một chuỗi các âm tương tự với âm trên bảng (/i:/,/e/,/æ/). Học sinh lắng nghe và cho biết liệu các âm trên giống hay khác với âm trên bảng. - One or Two (or three): Giáo viên viết lên bảng hai (hoặc ba) phiên âm quốc tế (ví dụ: 1 /I/, 2 /i:/, 3 /e/ sau đó lần lượt đọc các từ: fifteen/ fifty/ bit/ beat/ eat/ it/ man/ men) để học sinh nghe và nói "one" (1), "two" (2) hay "three" (3). - Correct or incorrect: Giáo viên viết một hay một chuỗi các từ lên bảng và phát âm một số từ trên đúng và một số từ sai. Học sinh lắng nghe và nói "correct" (đúng) hay "incorrect" (sai). - Word Elicitation: Viết phiên âm quốc tế lên bảng và yêu cầu học sinh liệt kê từ mà âm đó đứng đầu, từ mà âm đó đứng giữa, và từ mà âm đó đứng cuối. - Minimal Pairs: Viết phiên âm quốc tế lên bảng và cho học sinh thoải mái liệt kê các cặp từ gần giống nhau. Ví dụ: /I/ /i:/ Fifty Fifteen It eat Bin bean Ill eel .. - Missing words: Giáo viên đọc một câu hoặc một cụm từ ngắn trong đó có một từ để trống. Học sinh lắng nghe và đoán từ để điền vào chỗ trống, miễn sao từ đó phải chứa âm đang học. Ví dụ: Thực hành âm /3:/ A boy and a (girl) First, second and .... (third) A pigeon is a kind of . (bird) - Sentences Construction: Giáo viên viết lên bảng hai nhóm các từ có chứa âm đang học và yêu cầu học sinh đặt câu có sử dụng ít nhất hai từ trong hai nhóm đó. Ví dụ: Thực hành âm /ɔ:/ và /æ/ (SGK Tiếng Anh lớp 5 tập 1, Nhà xuất bản Giáo Dục Việt Nam) Unit 8 - Lesson 2 Nhóm 1: tall/small/fall/volleyball/talk. Nhóm 2: bad/bag/dad/Saturday/family. - Picture identification: Giáo viên có thể vẽ hoặc treo một bức tranh có hai sự vật lên bảng,chẳng hạn khi dạy hai âm /i:/ và /I/ giáo viên giới treo bức tranh Sau đó giáo viên nói "point to the ship" (Hãy chỉ vào chiếc thuyền) hay "point to the sheep" (Hãy chỉ vào con cừu), học sinh lắng nghe và thực hiện. Giáo viên chỉ vào từ ship và sheep cho học sinh phát âm chính xác. Sau đó giáo viên xóa từ và chỉ vào bức tranh cho học sinh phát âm đúng. Chú ý: Đối với những âm đôi, phương pháp dạy cũng tương tự, nhưng giáo viên nên phân chia nó thành hai âm đơn cho học sinh thực hành. Sau đó kết hợp hai âm đơn lại thành một âm đôi. Ví dụ: Khi dạy âm: /br/ brick 2/ Bài dạy áp dụng: 2.1. Bài dạy 1 TIẾNG ANH LỚP 4 Unit 11 My Daily Activities Lesson 2: Part 1, 2 Trong bài này học sinh học cách phát âm 2 âm /i:/ và /I/. Bằng việc áp dụng phương pháp trên, tôi tiến hành bài dạy này theo quy trình sau: Presentation - Giáo viên nói từ fifteen, học sinh im lặng lắng nghe. - Giáo viên hướng mặt về phía học sinh và nói âm /i:/ hai hoặc ba lần cốt để học sinh có thể nghe và quan sát miệng của giáo viên khi đọc âm đó. - Giáo viên đọc các từ có chứa âm /i:/ như: teen/ eat/ seat, fifteen học sinh nghe và đọc theo giáo viên. - Giáo viên viết các từ lên bảng - Giáo viên treo tranh miêu tả cách đọc âm /i:/ và giải thích cách đọc âm này: - Học sinh đồng thanh nhắc lại các từ trên bảng, sau đó giáo viên yêu cầu từng nhóm nhắc lại, cá nhân nhắc lại. - Theo đúng tiến trình trên giáo viên giới thiệu âm /I/. Giáo viên đọc từ fifty, học sinh lắng nghe. - Giáo viên hướng mặt về phía học sinh nói âm /I/ cốt để học sinh có thể nghe và quan sát được miệng của giáo viên khi phát âm này. - Giáo viên nói một vài từ có chứa âm /I/ như: ty/ it/ sit/ fifty học sinh đọc theo. - Giáo viên viết các từ lên bảng. - Giáo viên treo sơ đồ cách đọc âm /I/ và giảng giải cách phát âm /I/ - Giáo viên dùng các bức tranh chỉ ra cho học sinh các cử động miệng khác nhau khi phát ra hai âm /i:/ và /I/: khi phát âm /I/, vị trí lưỡi thấp hơn, khoảng cách môi trên và môi dưới rộng hơn và miệng mở rộng sang hai bên nhưng hẹp hơn một chút so với âm /i:/. Âm /i:/ phát dài hơi hơn âm /I/. - Chia học sinh thành 4 nhóm, nhắc lại và thực hành phát 2 âm /i:/ và /I/. Practice - Giáo viên đọc teen/ ty/ eat/ it/ seat/ sit/ fourteen/ forty/ thirteen/ thirty/ eighty/ eighteen theo thứ tự đảo lộn, học sinh lắng nghe để nhận diện /I/ hay /i:/ và đồng thanh nhắc lại các từ trên, sau đó lần lượt nhắc lại theo nhóm rối cá nhân. - Học sinh nhắc lại theo giáo viên và thực hành đọc các cụm từ: very happy/ six thirty/ fifteen teams/ eat this meat. - Học sinh nhắc lại theo giáo viên và thực hành đọc câu: It is six fifteen, Linda is thirsty and hungry. - Giáo viên bật băng cho học sinh nghe, học sinh vừa nhìn vào sách giáo khoa (trang 8; phần 1), vừa lắng nghe sau đó nhắc lại theo băng. Học sinh thực hành đọc đoạn sau theo cặp, giáo viên chỉnh sửa lỗi sai cho học sinh nếu có. It's nine fifteen. It's ten fifteen. Peter's thirsty. Linda's thirsty. It's nine fifty. It's ten fifty. Peter's hungry. Linda's happy. Production Giáo viên có thể áp dụng một trong số những hoạt động sau đây: - Học sinh chơi trò chơi Bingo. Giáo viên chia lớp thành các nhóm trong đó mỗi nhóm gồm 3 người. Một thành viên trong đội đọc lên các số có trong các ô sau theo thứ tự bất kì. Các thành viên còn lại chọn một trong các bảng A, B hoặc C, lắng nghe và gạch các số mình nghe. Người nào nghe đúng và gạch được hết các số trong ô của mình sớm nhất thì nói to: Bingo 13 3 15 7 50 30 17 80 18 5 16 15 70 90 3 17 7 6 5 90 13 20 30 16 14 80 18 A B C - Học sinh chia làm các nhóm gồm 3 đến 5 người, chơi trò one or two. 1 2 /i:/ /I/ Một học sinh đọc một từ chứa một trong hai âm trên (fifeen/ fifty/ hungry), những người còn lại nói one hoặc two. Thay vì nói học sinh có thể dùng ngón tay, nếu cột 1 thì giơ 1 ngón, nếu cột 2 thì giơ 2 ngón. Sau đó lần lượt các học sinh khác nói sao cho tất cả các thành viên trong nhóm đều được nói và được nghe. Trong khi học sinh thực hành, giáo viên đi vòng quanh lớp để giúp đỡ học sinh nếu cần thiết. 2.2. Bài dạy 2 TIẾNG ANH LỚP 5 Unit 8 My Favourite Books Lesson 2: Part 1, 2, 3 Trong bài này học sinh học cách phát âm 2 âm /ɔ:/ và /æ/. Tôi tiến hành bài dạy này theo quy trình sau: Presentation - Giáo viên nói từ Watermelon, học sinh im lặng lắng nghe. - Giáo viên hướng mặt về phía học sinh và nói âm /ɔ:/ hai hoặc ba lần cốt để học sinh có thể nghe và quan sát miệng của giáo viên khi đọc âm đó. - Giáo viên đọc các từ có chứa âm /ɔ:/ như: watermelon/ tall/ small học sinh nghe và đọc theo giáo viên. - Giáo viên viết các từ lên bảng. - Giáo viên treo tranh miêu tả cách đọc âm /ɔ:/ và giải thích cách đọc âm này: - Học sinh đồng thanh nhắc lại các từ trên bảng, sau đó giáo viên yêu cầu từng nhóm nhắc lại, cá nhân nhắc lại. - Theo đúng tiến trình trên, giáo viên giới thiệu âm /æ/. Giáo viên đọc từ dragon, học sinh lắng nghe. - Giáo viên hướng mặt về phía học sinh nói âm /æ/ cốt để học sinh có thể nghe và quan sát được miệng của giáo viên khi phát âm này. - Giáo viên nói một vài từ có chứa âm /æ/ như: dragon/ dad/ bad học sinh đọc theo. - Giáo viên viết các từ lên bảng. - Giáo viên treo sơ đồ cách đọc âm /æ/ và giảng giải cách phát âm /æ/. - Giáo viên dùng các bức tranh chỉ ra cho học sinh các cử động miệng khác nhau khi phát ra hai âm /ɔ:/ và /æ/: khi phát âm /ɔ:/, vị trí phần lưỡi phía sau cao hơn, môi tròn hơn so với khi phát âm âm /æ/. - Chia học sinh thành 4 nhóm, nhắc lại và thực hành phát 2 âm /ɔ:/ và /æ/. Practice - Giáo viên đọc talk/ tall/ small/ bad/ bag/ dad/ fall/ Saturday/ volleyball/ family theo thứ tự đảo lộn, học sinh lắng nghe để nhận diện /æ/ hay /ɔ:/ và đồng thanh nhắc lại các cặp từ trên, sau đó lần lượt nhắc lại theo nhóm rối cá nhân. - Học sinh nhắc lại theo giáo viên và thực hành đọc các cụm từ: dragon ball / the legend of watermelon. - Học sinh nhắc lại theo giáo viên và thực hành đọc câu: It's the dragon in Dragon Balls. - Giáo viên bật băng cho học sinh nghe, học sinh vừa nhìn vào sách giáo khoa (trang 64; phần 2), vừa lắng nghe sau đó nhắc lại theo băng. Học sinh thực hành đọc đoạn sau theo cặp, giáo viên chỉnh sửa lỗi sai cho học sinh nếu có. a. Mai: I'm reading a book. Nam: What book are you reading Mai: The Legend of Watermelon. b. Mai: What are you doing? Quân: I'm drawing a dragon. It's the dragon in Dragon Balls. Production Giáo viên có thể áp dụng một trong hai hoạt động sau đây: - Silent sounds: Giáo viên hướng mặt về phía học sinh, phát âm nhưng không thành tiếng lần lượt hai âm /ɔ:/ và /æ/. Học sinh quan sát cử động miệng của giáo viên (cử động của lưỡi, môi, răng) và đoán giáo viên đang nói âm gì và chỉ vào âm đó trên bảng. Sau đó giáo viên chia học sinh thành các nhóm từ 2 đến 3 người cùng chơi như trên. - Correct or incorrect: Giáo viên viết một từ hay một chuỗi các từ talk/ tall/ small/ bad/ bag/ dad/ fall/ Saturday/ volleyball/ family/ cord/ cad/ bought/ bat/ horse/ has lên bảng và phát âm một số từ trên đúng và một số từ sai. Học sinh lắng nghe và nói "correct" (đúng) hay "incorrect" (sai). Khi học sinh đã quen với luật chơi, giáo viên chia lớp thành các nhóm từ 4 đến 5 người cùng chơi như trên. - Trong khi học sinh thực hành, giáo viên đi vòng quanh lớp để giúp đỡ học sinh nếu cần thiết. IV. PHÂN TÍCH TỔNG HỢP, RÚT RA KẾT LUẬN KHOA HỌC Sau một năm áp dụng phương pháp này để dạy ngữ âm cho học sinh, tôi thấy rằng khả năng phát âm tiếng anh của các em đã có tiến bộ rõ rệt. Một số em trước đây rất ngại phát âm giờ đã mạnh dạn hơn, sôi nổi trong các phần thực hành và trò chơi. Thêm vào đó, các em đã có ý thức hơn khi phát âm sao cho tốt nhất có thể. Tiếp tục khảo sát năng lực phát âm của các em để theo dõi tôi đã thu được kết quả như sau: Khối Tổng số HS Giỏi Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % 4 20 5 25 8 40 6 30 1 5 5 27 6 22 10 37 9 33 2 8 - Trong quá trình thực hiện phương pháp này cũng có rất nhiều bài học để lại cho tôi. Mới đầu một số học sinh đã quen với cách học cũ nên rất bỡ ngỡ. Khi trình chiếu và giảng giải các sơ đồ về cử động của lưỡi, răng, môi của một số âm khó và không có trong tiếng Việt, nhiều học sinh không thể làm theo được, dẫn đến các em lại phát âm càng sai hơn. Nếu giáo viên cũng nản chí và chấp nhận cách đọc sai thì kết quả sẽ thất bại. Với phương pháp này tôi xem đối tượng học sinh trung bình và yếu là đối tượng được quan tâm hàng đầu. Sử dụng những hoạt động mang tính tập thể để kích thích các em phát huy điểm mạnh của mình. Từ đó giúp các em dần quen với phương pháp mới. Ví dụ: Có một số âm trong tiếng Anh cũng phát âm giống với tiếng Việt như: /b/, /p/, /n/, /m/, /l/ khi dạy những âm này giáo viên không cần thiết dành nhiều thời gian để giảng giải cách phát âm, nên cho học sinh nghe qua băng đĩa người bản ngữ phát những âm này để học sinh quen. Sau đó dành thời gian cho phần Production nhiều hơn. - Các hoạt động trong phần Production nên được thiết kế ngắn gọn, hấp dẫn, phù hợp với lứa tuổi và trình độ của từng đối tượng học sinh. C. PHẦN KẾT LUẬN Như vậy chúng ta thấy rằng việc phát triển ngữ âm Tiếng Anh cho học sinh tiểu học là một vấn đề không hề đơn giản. Nó đòi hỏi người giáo viên phải có phương pháp giảng dạy sáng tạo nhưng dễ hiểu, dễ tiếp nhận đối với học sinh. Qua một năm được đưa vào áp dụng, tôi nhận thấy rằng phương pháp dạy ngữ âm này đã mang đến rất nhiều tác dụng. Trước hết, tạo được niềm yêu thích và hưng phấn cho học sinh trong giờ học ngữ âm, giúp các em không còn cảm thấy khó khăn khi phát âm Tiếng Anh. Từ đó chất lượng học tập ngữ âm của học sinh đã tăng lên rõ rệt. Tỷ lệ học sinh giỏi tăng hơn 17% , tỉ lệ học sinh khá tăng 20%, trong khi đó tỉ lệ học sinh yếu kém giảm tới 20% so với đầu năm học. Bên cạnh đó, với bản thân tôi việc nghiên cứu phương pháp dạy ngữ âm cho học sinh đã góp phần nâng cao trình độ và năng lực sư phạm của mình, đồng thời góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy ngữ âm nói riêng và bộ môn Tiếng Anh nói chung. Trong điều kiện học sinh vùng miền núi, cơ sở vật chất dạy học còn thiếu thốn, cơ hội được tiếp xúc với người bản ngữ là rất khó thì những thành công ban đầu tôi thu được là một điều rất hạnh phúc với bản thân tôi. Phương pháp này có thể áp dụng cho các bài dạy ngữ âm trong sách giáo khoa Tiếng Anh lớp 3, lớp 4 lớp 5. Tuy nhiên do đặc thù từng tiết dạy có những âm tiết khác nhau nên các giáo viên cần áp dụng một cách sáng tạo. Như đã đề cập ở trên, dạy ngữ âm không chỉ đơn thuần là dạy cách phát âm (phonology), mà còn phải dạy các phần rất quan trọng như: trọng âm (stress), nhịp điệu (rhythm) và ngữ điệu (intonation). Trong thời gian tới tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu, tìm tòi và học hỏi từ các tài liệu, tư liệu, từ bạn bè đồng nghiệp cũng như từ kinh nghiệm thực tế để có phương pháp dạy trọng âm, ngữ điệu và nhịp điệu cho phù hợp với học sinh, đồng thời hoàn thiện phương pháp dạy ngữ âm của mình. D. KIẾN NGHỊ Để đề tài thực sự đem lại kết quả, cá nhân tôi có một vài kiến nghị, đề xuất sau: - Ban giám hiệu nhà trường cùng bộ phận thiết bị cần bổ sung đầy đủ các trang thiết bị hỗ trợ cho việc dạy bộ môn tiếng Anh như từ điển, sách báo, băng đĩa, máy cát sét, đèn chiếu v.v . - Các giáo viên nên vận dụng một cách sáng tạo phương pháp này sao cho phù hợp với từng đơn vị bài học và từng đối tượng học sinh cụ thể. Tránh dạy một cách rập khuôn, gây nhàm chán cho học sinh. - Để ứng dụng phương pháp mới này thật hiệu quả, tôi mạnh dạn kiến nghị tổ chuyên môn, Ban giám hiệu nhà trường, Phòng Giáo dục và Đào tạo tổ chức chuyên đề giới thiệu đề tài tới tất cả các bạn đồng nghiệp để trao đổi, học tập kinh nghiệm, rút ra được phương pháp dạy học ngữ âm tích cực cho bộ môn Tiếng Anh tiểu học. Xin chân thành cảm ơn! TÀI LIỆU THAM KHẢO Để tiến hành đề tài này tôi dựa trên một số tài liệu: 1. English Teaching Methodology. Nguyễn Thị Vân Lam, M.A, Ngô Đình Phương, Ph. D, 2007. 2. Tiªng Anh 3, 4, 5 . Nhµ xuÊt b¶n Gi¸o Dôc ViÖt Nam 2. Ship or Sheep? /An intermediate pronunciation course/ Third edition, Ann Baker. 3. How to Teach Pronunciation, Gerald Kelly, Pearson Longman, 2000. 4. Tips for Teaching Pronunciation: A Practical Approach, Linda Lane, Pearson Longman, 2010. 5. English Phonology and Pronunciation Teaching, Pamela Rogerson-Revell, Continuum International Publishing Group, 2011 6. Tài liệu từ các trang web :