Top 9 # Xem Nhiều Nhất Kinh Nghiệm Dạy Tiếng Anh Lớp 2 Mới Nhất 4/2023 # Top Like | Maytinhlongthanh.com

Sáng Kiến Kinh Nghiệm Kinh Nghiệm Dạy Tiếng Việt Lớp 2

– Trong nhà trường phổ thông , đặc biệt là nhà trường tiểu học càng cần cho học sinh phát âm đúng Tiếng Việt là yêu cầu cấp thiết hàng đầu,bởi vì các em học sinh có phát âm đúng,phát âm tốt thì không chỉ học tốt môn Tiếng Việt mà các em còn hiểu và tiếp thu tốt các môn học khác.Yêu c ầu đó càng cao tùy theo lớp học và cấp học.Đối với học sinh lớp 2 là lớp ,

việc rèn đọc bao gồm :

– Phát âm đúng

Xuất phát từ cơ sở trên, cộng với thực tế tình hình địa phương t ooi công tác,các em học sinh còn phát âm sai và đọc sai rất nhiều , chưa nói đến đọc diễn cảm.Tôi đã chọn nghiên cứu đề tài này với một mong muốn là khắc phục được việc phát âm sai ,đọc sai tiến tới đọc diễn cảm để nâng dần chất lượng học môn Tiếng Việt , làm cơ sở để học tốt các môn học khác.

Đối tượng nghiên cứu là 20 h/s lớp tôi đang chủ nhiệm.Công với sự hỗ trợ của các phương pháp nghiên cứu : so sánh,tổng hợp, phân tích và các loại sách giáo khoa, vở giáo khoa lớp 2 do bộ giáo dục và đào tạo ban hành.

Phòng giáo dục và đào tạo huyện giao thuỷ Trường tiểu học giao hương ******************************************* Sáng kiến dự thi cấp huyện Báo cáo sáng kiến Kinh nghiệm dạy phân môn cho học sinh lớp 2 Tên tác giả: Trần Thị Nguyệt Trình độ chuyên môn: Cao đẳng sư phạm Chức vụ : Giáo viên Nơi công tác : Trường tiểu học Giao Hương Giao H ư ơng , th ỏng 3 n ăm 2012 Thông tin chung về sáng kiến 1. Tên sáng kiến: kinh nghiệm dạy chính tả nghe đọc 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến HS l op 2C trường tiểu học Giao Hương 3. Thời hạn áp dụng sáng kiến: Từ ngày 5 tháng 9 năm 2011 đến ngày 15 tháng 3 năm 2012. 4. Tác giả: Họ và tên: Trần Thị Nguyệt Năm sính: 24/06/74 Nơi thường trú: Giao Hương- Giao Thuỷ- Nam Định Trình độ chuyên môn: Cu nhan cao dang Chức vụ công tác: Giáo viên Nơi làm việc: Trường tiểu học Giao Hương Địa chỉ liên hệ: Trường tiểu học Giao Hương Điện thoại: 0976.555.220 Kinh nghiệm dạy tiếng việt lớp 2 I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến - Trong nhà trường phổ thông , đặc biệt là nhà trường tiểu học càng cần cho học sinh phát âm đúng Tiếng Việt là yêu cầu cấp thiết hàng đầu,bởi vì các em học sinh có phát âm đúng,phát âm tốt thì không chỉ học tốt môn Tiếng Việt mà các em còn hiểu và tiếp thu tốt các môn học khác.Yêu c ầu đó càng cao tùy theo lớp học và cấp học.Đối với học sinh lớp 2 là lớp , việc rèn đọc bao gồm : - Phát âm đúng - Đọc đúng -Đọc hay Xuất phát từ cơ sở trên, cộng với thực tế tình hình địa phương t ooi công tác,các em học sinh còn phát âm sai và đọc sai rất nhiều , chưa nói đến đọc diễn cảm.Tôi đã chọn nghiên cứu đề tài này với một mong muốn là khắc phục được việc phát âm sai ,đọc sai tiến tới đọc diễn cảm để nâng dần chất lượng học môn Tiếng Việt , làm cơ sở để học tốt các môn học khác. Đối tượng nghiên cứu là 20 h/s lớp tôi đang chủ nhiệm.Công với sự hỗ trợ của các phương pháp nghiên cứu : so sánh,tổng hợp, phân tích và các loại sách giáo khoa, vở giáo khoa lớp 2 do bộ giáo dục và đào tạo ban hành. II. Thực trạng Khi tiếp nhận lớp, tôi thấy các học sinh đọc còn sai nhiều. Điều này khiến tôi rất băn khoăn và chú ý. Tôi quyết định chọn học sinh đọc yếu, đọc sai và khảo sát trên 20 đối tượng kết quả thu được như sau: + Phát âm đúng: 2/20 đạt tỉ lệ 10% + Đọc đúng :1/20 đạt tỉ lệ 5% + Đọc diễn cảm : 1/20 đạt tỉ lệ 5%. Để thực hiện đề tài của mình sau khi khảo sát, nắm được thực chất học sinh, tôi đã tiến hành các bước sau: III. các giải pháp Từ sau khi khảo sát học sinh để lấy đối tượng tôi bắt đầu đi sâu vào việc rèn đọc cho học sinh. 1, Luyện phát âm đúng Tức là học sinh phải phát âm đúng, to và rõ các âm tiết. Như vậy là phải đảm bảo đọc đúng các phụ âm đầu, các vần và các thanh. Thực tế, đối tượng tôi khảo sát chủ yếu học sinh phát âm sai các phụ âm đầu khó đọc, dễ nhầm như: tr- ch s- x l-n gi- d- r. * Nguyên nhân phát âm sai. - Do các con học sinh còn tự ti, do thói quen của địa phương và do ngại khó, không chịu tự rèn. ở các lớp dưới, các đồng chí giáo viên chưa chú ý đến khía cạnh này để rèn cho h/s ngay từ đầu. Về vần các em h/s còn đọc sai ở một số vần sau : "ươu" đọc thành" iêu "( Trong tiếng hươu) "ưu" đọc thành "iu" (trong tiếng cừu) Và cũng cần xét tới nguyên nhân nữa là do bẩm chúng tôi số này chiếm số lượng rất nhỏ ( do nói ngọng) * Biện pháp: Trước hết, giáo viên phải hết sức mẫu mực về mặt phát âm vì h/s sẽ không học tập ai khác ngoài giáo viên.Không chỉ mẫu mực trong giờ tập đọc mà giáo viên cần phải mẫu mực rèn luyện ở tất cả mọi giờ học,ở mọi nơi,mọi chỗ. - Rèn luyện h/s thường xuyên,lâu dài,nhất là trong các giờ tập đọc để các em tự phát hiện ra cách phát âm sai của nhau để từ đó h/s có ý thức tự sửa cho đúng. - Xây dựng các nhóm tự quản theo đơn vị xóm, đội sản xuất để các em tự theo dõi,sửa cho nhau khi về gia đình vì chủ yếu thời gian ngoài giờ tới lớp là các em sống tại gia đình. - Trong các giờ học,giáo viên cần tạo không lớp thật thoải mái để tránh hiện tượng tự ti, xấu hổ,không giám phát âm đúng . -Có kiểm tra đôn đốc,bình thi đua giữa các tổ ,nhóm. VD: ở địa phương tôi,chủ yếu các em sai phụ âm l Khi dạy bài "... Vố chim............" Tôi cho các em tự phát hiện các tiếng có phụ âm l -Tự các em sẽ phát hiện ra cách phát âm đúng hay sai ở bạn.Khi tôi yêu cầu phát âm lại . - H/s trên đọc lần thứ 3 mới đúng. - H/s thứ 2,3 đọc lần thứ 2 là đúng. - Từ h/s thứ 4 chỉ đọc một lần là đúng. Đồng thời cho h/s hiểu,nếu như các em đọc sai phụ âm đầu có nghĩa là làm sai nghĩa của từ có trường hợp làm sai hoàn toàn nghĩa của câu. VD:Từ lo và từ no. -Lo:là lo l ắng,diễn tả tâm trạng sợ sệt,không yên. -No : no bụng, no đủ. -Tôi chú ý cho h/s nhận xét đầu lưỡi khi phát âm n và l. -Cần tổ chức các trò chơi học mà vui,vui mà học, đòi hỏi sự nhanh trí như: + Một tổ tìm 5 từ có phụ âm đầu tr + Một tổ tìm 5 từ có phụ âm đầu s Cho học sinh tham gia chơi như chạy tiếp sức yêu cầu phải tìm đúng từ và phát âm đúng có tính điểm sẽ tạo không khí lớp học sôi nổi. Các em giải quyết tốt bài tập tôi ra một cách dễ dàng, nhanh chóng. Đối với 3 học sinh phát âm sai quá nhiều tôi phải kết hợp cùng với gia đình cùng dạy các em. Kết quả 3 tuần đầu thật đáng khích lệ, học sinh phát âm đúng là 18/20 em, đạt tỉ lệ 90% Tiếp sau là đọc đúng và đọc diễn cảm 2, Đọc đúng và đọc hay * Đọc đúng Yêu cầu đọc đúng bao gồm đọc đúng cụm từ, đọc đúng câu, đọc đúng đoạn văn, đọc đúng bài. Đọc đúng phải đảm bảo tốc độ, độ cao, ngữ điệu thích hợp với nội dung bài văn * Nguyên nhân đọc sai: Do học sinhchưa hiểu đúng được nội dung của văn bản và do chưa biết ngắt hơi, nghỉ hơi đúng, chưa biết ngữ điệu thích hợp với nội dung bài văn. Ví dụ: Bài "Chuyen bon mua" (Tiếng việt 2-tậpII) Câu cuối cần ngắt giọng " C ú em/ m ới co b ap bung bep lua nha san/ co giac ngu am trong chan//". Hay đối với những bài có giọng văn đối thoại, cần phải thay đổi ngữ điệu cho phù hợp với giọng văn đối thoại của từng nhân vật. - Việc rèn đọc đúng cho chủ yếu thực hiện trong giờ tập đọc. Ngoài ra các giờ học khác, khi đọc đúng ngữ điệu, ngắt nghỉ hơi đúng cũng có tác dụng rất tốt, giúp cho lời văn mạch lạc. Học sinh dễ dàng tìm ra hướng giải quyết yêu cầu của bài văn hoặc bài toán. - Cho học sinh tự phát ra hướng đọc, cách đọc, đọc đúng đối với một từ, một ngữ, một đoạn văn. Giáo viên chỉ là người bổ sung, hoàn thiện và tổng kết lại cách cho học sinh dễ dàng nắm bắt hơn thôi. Trong giờ tập đọc, học sinh đọc bài, các em tự nhận xét bài đọc của bạn để từ đó tìm ra cách đọc tốt nhất. - Tự các em thấy tầm quan trọng của việc nghỉ hơi đúng chỗ, các em sẽ cố gắng đọc tốt hơn. - Cần tạo không khí sôi nổi, thi đua trong giờ tập đọc. - Cần đọc đúng các từ ngữ mà sách giáo khoa đã yêu cầu. Ngoài ra giáo viên phải xem thực tế tình hình học sinh của lớp còn có gì cần bổ sung , uốn sửa trong bài tập đọc. - Mở rộng cho các em tự tìm các từ ngữ mà bản thân cảm thấy khó để luyện đọc. VD:bài:"Thác Y-a-li" ( Tiếng Việt 5 Tập 1) Ngoài việc đọc đúng các từ ngữ trong sách h/s còn phát hiện ra một số từ sau: -Qua khảo sát áp dụng cách này từ tuần thứ 5 đến tuần thứ 8 đã đạt được kết quả sau. Tỉ lệ h/s đọc đúng là : 15/20 em đạt 75%. 3, Đọc hay : Đọc hay thể hiện được hai mặt của việc đọc: * Một là truyền đạt đúng nhất , đủ nhất, cao nhất nội dung tình ý của văn bản tới người nghe, * Hai là tự bộc lộ thụ cảm của mình đối với văn bản. Đọc hay không phải là yêu cầu chính của chính âm nhưng công việc chính âm trong nhà trường phải đi tới mục tiêu đọc hay. - Giáo viên phải tìm hiểu kĩ nôi dung bài văn,bài thơ,bởi vì có cảm nhận sâu sắc bài văn ,bài thơ thì bản thân giáo viên mới có thể đọc hay được , để từ đó mới hướng dẫn cho h/s đọc diễn cảm đúng nội dung bài văn. - Giáo viên cần nêu để các em tự tìm ra cách đọc diễn cảm. Vd:Bài:"Bài học quý" "Vừa gặp Sẻ, Chích đã reo lên..." Ta phải đọc giọng nói như thế nào ? ( Giọng vui vẻ) Câu trả lời của Sẻ Đọc nhấn giọng các từ ngữ mà sách h/s yêu cầu. - Đầu giờ tốt nhất là chọn em h/s đọc mẫu có giọng đọc thật tốt nếu không có thì giáo viên đọc mẫu cho h/s. -Giáo viên chú ý cách đọc từng thể loại : văn vần ,văn xuôi,kể chuyện ,miêu tả, mỗi loại đều có cách đọc khác nhau. -Giáo viên chú ý nghe để sửa sai cho h/s. -Giáo viên thường xuyên kể chuyện cho h/s nghe vì theo tôi nghĩ,kể chuyện là hình thức tốt nhất,thể hiện diễn cảm nội dung câu chuyện.Thực tế tình hình lớp tôi nếu cùng một nội dung câu chuyện thì kể các em vẫn hứng thú hơn đọc câu chuyện đó rất nhiều. -Trong những điều kiện cho phép có thể cho các em đóng một vài tiểu phẩm kịch ngắn. VD:"Chuyen Ong Manh thang Than Gio" -Hàng tuần tôi thường tổ chức cho các em thi kể chuyện,đọc thơ để rèn luyện cho các em tính bạo dạn,tự khẳng định mình,bớt đi thói tự ti. -Kết quả cho thấy các em hứng thú và say mê rất nhiều đối với môn tập đọc. Đến tuần thứ 16 thì kết quả h/s đọc diễn cảm đã đạt 10/20 em,đạt tỉ lê 50%. Cùng với việc nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt,chất lượng các môn học khác cũng nâng lên rõ rệt. *Chú ý:Trong quá trình dạy ,tôi không tách rời 3 quá trình:Hướng dẫn phát âm đúng,đọc đúng,đọc hay và luôn luôn có sự kết hợp nhuần nhuyễn các khâu,vì đối tượng 20 h/s tôi chọn gồm đủ mọi đối tượng h/s:Khá, trung bình, yếu nên khả năng tiếp thu và mức độ sai lầm của mỗi em cũng rất khác nhau: Cụ thể khi dạy bài : Chau nho Bac Ho" Tôi hỏi:Theo em trong bài có từ gì khó đọc? H/s tìm được: O Lau, bang khuang -Gọi h/s khá đọc và hỏi: Khi đọc hai từ này phải chú ý điều gì? ( Uốn lưỡi phụ âm đầu l) Và tôi bổ sung thêm từ phải đọc liền mạch. Thế là tự các em đã giải quyết được từ khó.Đây là bài thơ: khi đọc các em phải đọc đúng nhịp thơ.( Giáo viên hoăc h/s khá đọc mẫu ) Qua quá trình tìm hiểu h/s đã thấy rõ nội dung của từng doan thơ. Bai tho đọc với giọng như thế nào ? ( cam dong, thiet tha) Vì sao ? Vì nó nói lên tinh cam cua cac chau thieu nhi doi voi BH Như thế vừa khắc sâu được nội dung bài vừa hướng cho các em đọc hay. -Cứ như thế gọi từng h/s đọc từng khổ thơ theo từng đoạn,cuối cùng một h/s đọc tốt nhất đọc tot toàn bài thơ,nếu cảm thấy chưa hoàn hảo thì giáo viên mới đọc mẫu để định hướng cho những em đọc yếu về nhà luyện đọc. IV: Hiệu quả do sáng kiến đem lại 1. Luyện phát âm phải kiên trì, dài lâu,uốn nắn cụ thể từng cái sai của từng h/s. Phải luôn luôn so sánh phát âm bằng độ há của miệng,bật hơi của môi,độ cong của lưỡi. Phải so sánh nghĩa của từng âm khác nhau,nếu đọc sai âm thì sẽ sai nghĩa. 2.Đọc đúng và đọc diễn cảm cũng phải nâng dần từ thấp tới cao và rèn cho h/s một cách kiên trì bền bỉ, phải luôn luôn cho h/s hiểu nội dung văn bản mới đọc đúng văn bản.H/s phải cảm thụ bài văn, bài thơ mới đọc diễn cảm để bộc lộ đúng ý nghĩa của nó. 3.Phải sử dụng nhiều phương pháp rèn đọc:Đọc to,đọc thầm,đọc ở lớp, đọc ở nhà,thi đọc diễn cảm,đọc phân vai, đọc kết hợp kể chuyện,ngâm thơ. Phải bồi dưỡng h/s đọc tốt làm hạt nhân, đồng thời phải hết sức chú trọng rèn h/s kém,cụ thể, tỉ mỉ. 4.Bản thân giáo viên phải đạt chuẩn mực về đọc. Giáo viên phải rung cảm thực sự với tác phẩm luyện cho mình có ngữ điệu đọc hay có sức cuốn hút h/s. Giáo viên phải đọc trước ở nhà nhiều lần để thâm nhập tác phẩm và tự luyện đọc diễn cảm. V. đề xuất kiến nghị Cuối cùng,tôi xin cảm ơn các đồng chí giáo viên trường Tiểu học Giao Hương giúp tôi hoàn thành đề tài này.Cảm ơn ban thanh tra phòng giáo dục đào tạo Giao Thuỷ đã quan tâm, theo dõi và đóng góp ý kiến cho tôi. Giao Hương ngày 25 tháng 03 năm 2011 Người làm đề tài : Trần Thị Nguyệt Trường tiểu học giao hương (xác nhận đánh giá xếp loại) ................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................ phòng gd- đt giao thuỷ (xác nhận,đánh giá, xếp loại) ..................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................

Sáng Kiến Kinh Nghiệm Kinh Nghiệm Dạy Từ Vựng Môn Tiếng Anh Lớp 6

ới, muốn giao tiếp được với nó, đòi hỏi chúng ta phải có một vốn từ bởi vì từ vựng là một thành phần không thể thiếu được trong ngôn ngữ. Trong tiếng Anh chúng ta không thể rèn luyện và phát triển bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết của học sinh mà không dựa vào nền tảng của từ vựng. Thật vậy, nếu không có số vốn từ cần thiết, các em sẽ không thể phát triển tốt các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho dù các em có nắm vững các mẫu câu và kiến trhức ngữ pháp. Do vậy, giúp học sinh nắm vững các từ đã học để vận dụng vào việc rèn luyện các kỹ năng là việc làm rất quan trọng khiến tôi trăn trở và quyết định thực hiện đề tài : "Kinh nghiệm dạy từ vựng môn tiếng Anh 6" . - Nhưng đa phần, học sinh không hiểu được tầm quan trọng của từ vựng nên rất lười học hoặc chỉ học hoa loa rồi không sử dụng được nó , trong đó học sinh khối 6 cũng không ngoại lệ, với lượng kiến thức mới mà nó khác xa với tiếng mẹ đẻ như thế thì học sinh rất sợ học. Do vậy người giáo viên phải làm gì để từ vựng không còn là " nổi khó khăn "của học sinh , suy nghĩ ấy cứ làm tôi trăn trở mãi , với vài năm đứng lớp gặp không biết bao nhiêu lần học sinh không thuộc từ vựng , viết sai , hiểu sai câu và không dịch được đã thôi thúc tôi thực hiện đề tài "Kinh nghiệm dạy từ vựng môn tiếng Anh 6" 2. Đối tượng - phương pháp nghiên cứu : - Học sinh lớp 6 Trường THCS Nguyễn Văn Tre - Phương pháp nghiên cứu tài liệu , dự giờ đồng nghiệp , kiểm tra , đối chiếu , so sánh kết quả của học sinh 3. Đề tài đưa ra giải pháp mới : - Trước khi đi vào những vấn đề cụ thể , chúng ta thống nhất với nhau rằng , phương pháp chủ đạo trong dạy học ngoại ngữ của chúng ta là lồng ghép , nghĩa là từ mới cần được dạy trong ngữ cảnh , ngữ cảnh có thể là một bài đọc , một đoạn hội thoại hay một bài khoá tuy nhiên , nói đến cùng thì việc dạy và học ngoại ngữ vẫn là việc dạy từ mới như thế nào ?, dạy cấu trúc câu mới như thế nào để học sinh biết cách sử dụng từ mới và cấu trúc mới trong giao tiếp bằng tiếng nước ngoài. Ngay từ đầu , giáo viên cần xem xét các thủ thuật khác nhau cho từng bước xử lý từ vựng trong các ngữ cảnh mới : gợi mở , dạy từ , kiểm tra và củng cố từ vựng. - Có nên dạy tất cả những từ mới không ? dạy bao nhiêu từ trong một tiết thì thừa ? - Dùng sẵn mẫu câu đã học hoặc sắp học để giới thiệu từ mới. - Dùng tranh ảnh , dụng cụ trực quan để giới thiệu từ mới . - Đảm bảo cho học sinh nắm được cấu trúc , vận dụng từ vựng vào cấu trúc để hoàn thiện chức năng giao tiếp . Thiết lập mối quan hệ giữa cấu trúc mới và vốn từ đã có. - Khắc sâu vốn từ trong trí nhớ của học sinh thông qua các mẫu câu và qua những bài tập thực hành. 4. Hiệu quả áp dụng: - Các tiết học trở nên sôi nổi và sinh động hơn. - Học sinh đã thuộc các từ mới ngay tại lớp học. - Vốn từ vựng của các em tăng lên rõ rệt. - Các em học sinh yếu kém có thể sử dụng được từ vựng vào những câu đơn giản. Những học sinh khá có thể sử dụng từ vựng trong những câu phức tạp hơn. A. MÔÛ ÑAÀU I. Lý do chọn đề tài : Để nắm bắt các thông tin văn hoá - khoa học kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài, thì điều quan trọng trước mắt là chúng ta phải học tiếng nước ngoài, phải học để hiểu và nói được một thứ tiếng phổ biến nhất thế giới đó là tiếng Anh . Là một giáo viên dạy bộ môn tiếng Anh , đào tạo những lớp người sau này có thể nắm bắt được những thông tin của nước ngoài áp dụng vào việc xây dựng đất nước Việt Nam ta ngày càng giàu mạnh hơn . Giáo viên phải nhận thức rằng bộ môn tiếng Anh được coi là một công cụ để giao tiếp , đòi hỏi chúng ta phải có một số vốn từ, cho nên việc học từ vựng là một tất yếu không thể không kể đến trong việc học tiếng Anh . Ở trường trung học cơ sở giáo viên dạy học cho học sinh cùng với các môn khác trên cơ sở trang bị cho học sinh hệ thống những kỹ năng , kỹ xảo cần thiết, nhằm đào tạo đội ngũ lao động có tri thức, có tay nghề, có kỹ năng thực hành, năng động và sáng tạo .., việc hình thành và rèn luyện các kỹ năng cho học sinh giáo viên không chỉ chú ý vào việc truyền thụ kiến thức trong sách giáo khoa, sử dụng các phương tiện dạy học mà phải quan tâm đến việc tổ chức quá trình dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của người học , đề cao và phát huy tốt vai trò tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập, tổ chức cho học sinh lĩnh hội tri thức bằng chính hoạt động của mình, nhưng đa phần học sinh không hiểu tầm quan trọng của từ vựng nên rất lười học hoặc chỉ học hoa loa rồi không sử dụng được nó, với lượng kiến thức mới mà nó khác xa với tiếng mẹ đẻ như thế thì học sinh rất sợ học. Do vậy người giáo viên phải làm gì để từ vựng không còn là ' nỗi khó khăn ' của học sinh, suy nghĩ làm tôi trăn trở mãi , với kinh nghiệm vài năm đứng lớp , gặp không biết bao nhiêu lần học sinh không thuộc từ vựng , viết sai , hiểu câu sai đãï thôi thúc tôi thực hiện đề tài " Kinh nghiệm dạy từ vựng môn Tiếng anh 6" 2. Đối tượng nghiên cứu : - Được phân công giảng dạy môn tiếng Anh , tôi chọn lớp 6A1,2 để nghiên cứu đề tài với mục tiêu cải tiến phương pháp dạy học tiếng Anh 6, nhằm phát triển vốn từ vựng cho học sinh và qua đó áp dụng vào thực tế nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy ở học sinh các khối. 3. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài này có thể áp dụng giảng dạy cho các học sinh khối 6, 7, 8, 9 ở trường trung học cơ sở Nguyễn Văn Tre . 4. Phương pháp nghiên cứu : Tôi đã tìm tòi nghiên cứu các tài liệu, kết hợp dự giờ, thực nghiệm, kiểm tra đối chiếu các kết quả học tập của học sinh, hầu rút ra được phương pháp dạy tốt nhất cho các em. B. NOÄI DUNG 1. Cơ sở lý luận : Luật Giáo dục - 2005 (điều 5) quy định "phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên." Với mục tiêu giáo dục phổ thông là " Giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc". Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định số 16/2006/QĐ - BGDĐT ngày 05/05/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã nêu: " Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh , phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện từng lớp học, bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tế, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh. 2. Cơ sở thực tiễn: - Bất cứ một thứ tiếng nào trên thế giới, muốn giao tiếp được với nó, đòi hỏi chúng ta phải có một vốn từ. Bởi vì từ vựng là một thành phần không thể thiếu được trong ngôn ngữ, được sử dụng cho hoạt động giao tiếp. Do vậy, việc nắm vững số từ đã học để vận dụng là việc làm rất quan trọng. - Trong Tiếng anh chúng ta không thể rèn luyện và phát triển bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết của học sinh mà không dựa vào nền tảng của từ vựng. Thật vậy nếu không có số vốn từ cần thiết, các em sẽ không nghe được và hệ quả của nó là không nói được, đọc không được và viết cũng không xong, cho dù các em có nắm vững mẫu câu. 3/. Nội dung vấn đề: a. Thực trạng: - Về sự phân bố tiết trong tuần, có khi một buổi các em phải học hai tiết tiếng Anh liên tiếp, phải tải một số lượng từ rất nhiều. Điều này chắc chắn sẽ gây tâm lý quá tải cho một số học sinh, gây ảnh hưởng rất nhiều đến tiết học sau. - Về phía học sinh, bên cạnh một số em học hành nghiêm túc, có không ít học sinh chỉ học hoa loa, không khắc sâu được từ vựng vào trong trí nhớ, không tập đọc, tập viết thường xuyên, không thuộc nghĩa hai chiều. Đến khi giáo viên yêu cầu các em sẽ không thành công. - Về phía học sinh, cũng rất khó khăn trong việc kiểm tra hoặc hướng dẫn các em tự học ở nhà. Bởi vì vậy là môn ngoại ngữ, không phải phụ huynh nào cũng biết. Đây cũng là vấn đề hết sức khó khăn trong quản lý việc học ở nhà của học sinh. - Ngoài ra, cách học từ vựng của học sinh cũng là điều đáng được quan tâm, học sinh thường học từ vựng bằng cách đọc từ bằng tiếng Anh và cố nhớ nghĩa bằng tiếng Việt, có viết trong tập viết cũng là để đối phó với giáo viên, chứ chưa có ý thức tự kiểm tra lại mình, để khắc sâu từ mới và vốn từ sẵn có. Vì thế cho nên, các em rất mau quên và dễ dàng lẫn lộn giữa từ này với từ khác. Do vậy, nhiều học sinh đâm ra chán học và bỏ quên. Cho nên giáo viên cần chú ý đến tâm lý này của học sinh. b. Định hướng chung của đề tài: Sau khi phân tích những nguyên nhân làm cho học sinh sợ học tiếng Anh, thường xuyên không thuộc bài và việc dạy từ vựng ở trường phổ thông chưa đạt hiệu quả cao. Vì thế, tôi quyết định thử áp dụng một số kinh nghiệm dạy từ vựng của mình qua những năm đứng lớp và suốt những tiết học sau tôi áp dụng những kinh nghiệm của mình được trình bày sau đây, để cuối năm so sánh với kết quả ban đầu. 4. Quá trình thực hiện: a/. Lựa chọn từ để dạy: Tiếng Anh là một môn học có tầm quan trọng, nó là công cụ để giao tiếp với các nước trên thế giới. Muốn giao tiếp tốt chúng ta phải có vốn từ phong phú. Ở môi trường phổ thông hiện nay, khi nói đến ngữ liệu môi là chủ yếu nói đến ngữ pháp và từ vựng, từ vựng là ngữ pháp luôn có mối quan hệ khắng khích với nhau, luôn được dạy phối hợp để làm rõ nghĩa của nhau. Tuy nhiên dạy và giới thiệu từ vựng là vấn đề cụ thể. Thông thường trong một bài học luôn xuất hiện những từ mới, xong không phải từ mới nào cũng cần đưa vào để dạy. Để chọn từ cần dạy, giáo viên cần xem xét những vấn đề: - Từ chủ động (active vocabulary) - Từ bị động (passive vocabulary) Với từ bị động giáo viên chỉ cần dừng ở mức nhận biết, không cần đầu tư thời gian vào các hoạt động ứng dụng. Giáo viên cần biết lựa chọn và quyết định xem sẽ dạy từ nào như một từ chủ động và từ nào như một từ bị động. - Khi dạy từ mới cần làm rõ ba yếu tố cơ bản của ngôn ngữ là: + Form. + Meaning. + Use. Đối với từ chủ động ta chỉ cho học sinh biết chữ viết và định nghĩa như từ điển thì chưa đủ, để cho học sinh biết cách dùng chúng trong giao tiếp, giáo viên cần cho học sinh biết cách phát âm, không chỉ từ riêng lẻ, mà còn biết phát âm đúng những từ đó trong chuỗi lời nói, đặc biệt là biết nghĩa của từ. -Số lượng từ cần dạy trong bài tuỳ thuộc vào nội dung bài và trình độ của học sinh. Không bao giờ dạy tất cả các từ mới, vì sẽ không có đủ thời gian thực hiện các hoạt động khác. Tuy nhiên, trong một tiết học chỉ nên dạy tối đa là 6 từ. - Trong khi lựa chọn từ để dạy, bạn nên xem xét đến hai điều kiện sau: + Từ đó có cần thiết cho việc hiểu văn bản không ? + Từ đó có khó so với trình độ học sinh không ? - Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản và phù hợp với trình độ của học sinh, thì nó thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn phải dạy cho học sinh. - Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản nhưng khó so với trình độ của học sinh, thì nó không thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn nên giải thích rồi cho học sinh hiểu nghĩa từ đó ngay. - Nếu từ đó không cần thiết cho việc hiểu văn bản và cũng không khó lắm thì bạn nên yêu cầu học sinh đoán. b. Các thủ thuật gợi mở giới thiệu từ mới: giáo viên có thể dùng một số thủ thuật gợi mở giới thiệu từ mới như: 1. Visual (nhìn): cho học sinh nhìn tranh ảnh, vẽ phác hoạ cho các em nhìn, giúp giáo viên ngữ nghĩa hoá từ một cách nhanh chống. e.g. a car e.g. a flower 2. Mine (điệu bộ): Thể hiện qua nét mặt, điệu bộ. e.g. hungry Teacher makes bored face T. asks, "How do I feel?" e.g. (to) swim T. swim T. asks, "What am l doing?" 3. Realia (vật thật): Dùng những dụng cụ trực quan thực tế có được. e.g. orange (count), milk (uncount.) T. brings real orange and milk into the class. T. asks, "What's this?" e.g. door T. shows the door T. says, "what's this?" 4. Situation / explanation: e.g. kitchen T. explains, "I usully havebreakfast, lunch and dinner there." T. asks, "Where is it? Tell me the word in Vietnamese." 5. Example e.g. food T. lists examples of food: " noodles, meet, vegetables- these are all ... food ... Give me another example of... food..." e.g. (to) stay T. says, "I live in Thanh My and I have a vacation in HCM city." T. asks, "Where am I in ?" 6. Synonyon antonyon (đồng nghĩa trái nghĩa): Giáo viên dùng những từ đã học rồi để giảng từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa. e.g. high T. asks, "What's another word for tall ?" e.g. thin T. asks, "What's the opposite of fat ? " 7. Translation (dịch): Giáo viên dùng những từ tương đương trong tiếng Việt để giảng nghĩa từ trong tiếng Anh. Giáo viên chỉ sử dụng thủ thuật này khi không còn cách nào khác, thủ thuật này thường được dùng để dạy từ trừu tượng, hoặc để giải quyết một số lượng từ nhiều nhưng thời gian không cho phép, Giáo viên gợi ý học sinh tự dịch từ đó. e.g. near T. asks, "How do you say "gần" in English?" 8. Teacher's eliciting questions : Để giới thiệu từ mới, giáo viên dạy cho học sinh theo bốn kỹ năng nghe - nói - đọc - viết. + Nghe: Giáo viên đọc mẫu, học sinh lắng nghe. + Nói: Giáo viên đọc từ, học sinh đọc lại. + Đọc: Giáo viên viết từ lên bảng, học sinh đọc từ bằng mắt, bằng miệng. + Viết: Học sinh viết từ vào tập. Trong khi dạy từ mới phải ghi nhớ các điểm sau: Nên giới thiệu từ trong mẫu câu, ở những tình huống giao tiếp khác nhau, giáo viên kết hợp việc làm việc đó, bằng cách thiết lập được sự quan hệ giữa từ củ và từ mới, từ vựng phải được củng cố liên tục. Giáo viên thường xuyên kiểm tra từ vựng vào đầu giờ bằng cách cho các em viết từ vào bảng con và giơ lên, với cách này giáo viên có thể quan sát được toàn bộ học sinh ở lớp, bắt buộc các em phải học bài và nên nhớ cho học sinh vận dụng từ vào trong mẫu câu, với những tình huống thực tế giúp các em nhớ từ lâu hơn, giao tiếp tốt và mang lại hiệu quả cao. Để học sinh tiếp thu bài tốt đòi hỏi khi dạy từ mới, giáo viên cần phải lựa chọn các phương pháp cho phù hợp, chúng ta cần chọn cách nào ngắn nhất, nhanh nhất, mang lại hiệu quả cao nhất, là sau khi học xong từ vựng thì các em đọc được, viết được và biết cách đưa vào các tình huống thực tế. 5. Biện pháp tổ chức thực hiện: a. Các bước tiến hành giới thiệu từ mới: Điều quan trọng nhất trong giới thiệu từ mới là phải thực hiện theo trình tự: nghe, nói, đọc, viết. Đừng bao giờ bắt đầu từ hoạt động nào khác "nghe". Hãy nhớ lại quá trình học tiếng mẹ đẻ của chúng ta, bao giờ cũng bắt đầu bằng nghe, bắt chước phát âm rồi mới tới những hoạt động khác. Hãy giúp cho học sinh của bạn có một thói quen học từ mới một cách tốt nhất: - Bước 1: "nghe", bạn cho học sinh nghe từ mới bằng cách đọc mẫu. - Bước 2: "nói", sau khi học sinh đã nghe được ba lần bạn mới yêu cầu học sinh nhắc lại. Khi cho học sinh nhắc lại , bạn cần chú ý cho cả lớp nhắc lại trước, sau đó mới gọi cá nhân. - Bước 3: "đọc", bạn viết từ đó lên bảng và cho học sinh nhìn vào đó để đọc. Cho học sinh đọc cả lớp, rồi đọc cá nhân và sửa lỗi cho học sinh tới một chừng mực mà bạn cho là đạt yêu cầu. - Bước 4: "viết", sau khi học sinh đã đọc từ đó một cách chính xác rồi bạn mới yêu cầu học sinh viết từ đó vào vở. - Bước 5: bạn hỏi xem có học sinh nào biết nghĩa của từ đó không và yêu cầu một học sinh lên bảng viết nghĩa của từ đó bằng tiếng Việt. - Bước 6: đánh trọng âm từ: phát âm lại từ và yêu cầu học sinh nhận diện âm tiết có trọng âm và đánh dấu. - Bước 7: cho câu mẫu và yêu cầu học sinh xác định từ loại của từ mới học. b. Các thủ thuật kiểm tra và củng cố từ mới: 1. Rub out and Remember (giải thích - ví dụ) 2. Slap the board (giải thích - ví dụ) 3. What and where (giải thích - ví dụ) 4. Matching (giải thích - ví dụ) 5. Bingo (giải thích - ví dụ) 6. Lisle order vocabulary (giải thích - ví dụ) 6. Hướng dẫn học sinh học từ vựng ở nhà: Để phát huy tốt tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập, thì chúng ta cần tổ chức quá trình dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của người học, trong quá trình dạy và học, giáo viên chỉ là người truyền tải kiến thức đến học sinh, học sinh muốn lĩnh hội tốt những kiến thức đó, thì các em phải tự học bằng chính các hoạt động của mình. Hơn nữa thời gian học ở trường rất ít, cho nên đa phần thời gian còn lại ở gia đình các em phải tổ chức cho được hoạt động học tập của mình. Làm được điều đó, thì chắc chắn hoạt động dạy và học sẽ ngày càng hoàn thiện hơn. Cho nên ngay từ đầu từ năm học, giáo viên cần hướng dẫn học sinh xây dựng hoạt động học tập ở nhà. Chuẩn bị từ vựng: b. Học thuộc lòng từ vựng. - Hs chuẩn bị 1 quyển tập để học từ vựng bằng cách viết mỗi từ vựng mới từ 5- 10 lần theo từng đơn vị bài học (để giáo viên dễ kiểm tra) 7. Kết quả: a/. Đưa ra kết quả cụ thể. Lớp Tháng Giỏi Khá TB Yếu 6a 1 HK1 9 10 13 7 (39HS) THÁNG 1+2 9 11 15 3 THÁNG 3 10 11 16 2 HK2 6a 2 HK1 8 9 8 9 (34HS) THÁNG 1+2 10 9 10 5 THÁNG 3 12 10 10 3 HK2 b. Nhận xét đánh giá chung về ưu điểm và hạn chế của sáng kiến kinh nghiệm. * Ưu điểm: - Lớp học sinh động, mỗi tiết học đối với hs có sự thu hút khác nhau. - HS giỏi có cơ hội thể hiện khả năng sử dụng Tiếng Anh,hs kém có cơ hội luyện tập thêm . - HS đều được làm việc, không khí học tập thân thiện trong lớp. - Hiệu quả làm việc của HS cao, nhiều HS được thể hiện khả năng cá nhân và tinh thần giúp đỡ nhau. - HS không chỉ được học tập kiến thức, kỹ năng mà còn thu nhận được kết quả về cách làm việc hợp tác cùng nhau, học cách làm việc cùng nhau. * Hạn chế: - Tranh ảnh phục vụ cho giảng day thư viện quá ít, hoặc thiếu. Đa phần do gv tự sưu tầm hoặc tự làm. - Khả năng bao quát lớp của GV gặp khó khăn với lớp có đông HS. - Đa số hs sống ở nông thôn, vì thế không có môi trường nói thực hành Tiếng anh nên khả năng vận dụng kiến thức thực tế rất hạn chế. C. KẾT LUẬN Tôi thực hiện đề tài này chỉ là một phần trong tiết học, tuy nhiên nó đóng vai trò rất quan trọng cho việc thực hành mẫu câu, việc đối thoại có trôi chảy, lưu loát hay không đều phải phụ thuộc vào việc học thuộc lòng từ vựng và phát âm có chuẩn hay không. Nhưng để thực hiện giảng dạy tốt một tiết từ vựng, không chỉ cần có sự đầu tư vào bài giảng, vào các bước lên lớp của giáo viên, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào sự hợp tác của học sinh. Do vậy tôi đã đưa ra một số yêu cầu đối với học sinh như: Chuẩn bị bài ở nhà, trong giờ học phải nghiêm túc. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Những vấn đề chung về đổi mới Giáo dục Trung học cơ sở môn tiếng Anh - Bộ Giáo dục và Đào tạo. ( Nhà xuất bản Giáo dục) 2. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên trung học cơ sở ( Nhà xuất bản Giáo dục) 3. Teach English. 4. Chuẩn kiến thức. 5. Các thủ thuật dạy từ vựng.

Kinh Nghiệm Dạy Tiếng Anh Lớp 4 Hiệu Quả

1. Cho trẻ học trong môi trường tiếng Anh chuẩn nhất

Môi trường học chuẩn sẽ đóng góp những vai trò tích cực vào phương pháp học tập của mỗi trẻ nhỏ khi học ngôn ngữ. Chỉ cần cho các bé được học trong 1 môi trường tích cực, thì các bé sẽ lên trình tiếng Anh một cách nhanh chóng. Đây là 1 trong những phương pháp dạy học tiếng Anh lớp 4 hiệu quả nhất, bởi vì các bé được tiếp xúc cùng với môi trường tiếng Anh chuẩn và được trực tiếp tự rèn luyện bản thân ở trong môi trường này.

Phát âm tiếng Anh đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình phát triển ngôn ngữ của trẻ, nếu khi còn nhỏ các bé phát âm không chuẩn thì sẽ rất khó sửa về sau này. Việc phát âm sai cũng sẽ khiến các bé mất tự tin trong giao tiếp tiếng Anh với người nước ngoài. Do vậy, ngay từ khi bắt đầu dạy tiếng Anh lớp 4, phụ huynh nên cho bé được tiếp xúc với các nguồn và môi trường tiếng Anh chuẩn, bậc phụ huynh nên lựa chọn cho con học với các giáo viên kinh nghiệm hoặc giáo viên bản ngữ. Khi được học với giáo viên bản ngữ, các bé lớp 4 sẽ học được cách phát âm và ngữ điệu chuẩn của họ, ngoài ra bé còn được tiếp xúc với nền văn hoá mới trong tiếng Anh – điều kiện tốt để trẻ phản xạ và giao tiếp tốt bằng vốn từ vựng tiếng Anh sau này.

Phương pháp dạy và học sẽ đóng vai trò quyết định trong việc học tiếng Anh trẻ em . Học trong môi trường chuẩn tiếng Anh, các bé sẽ được phát âm chuẩn và tự tin nói tiếng Anh, tuy nhiên, nếu giáo viên dạy không đúng phương pháp với từng giai đoạn phát triển của trẻ, thì trẻ sẽ chủ yếu chỉ phát triển vốn từ vựng tiếng Anh và những mẫu câu đơn giản thay vì phát triển xa hơn. Hệ thống giáo trình tiếng Anh cho trẻ lớp 4 cũng cần phải thật sự phù hợp với độ tuổi, tâm lý, khả năng tiếp thu của các bé cũng như cần phải phù hợp với phương pháp giảng dạy tiếng Anh lớp 4 nhằm tạo sự yêu thích và hứng thú học tập cho các bé.

Tiếng Anh là ngôn ngữ toàn cầu vì vậy việc tìm được địa điểm mà những trẻ nhỏ ham học tiếng Anh có thể trao đổi, học hỏi lẫn nhau là điều không khó. Các bậc phụ huynh nên chăm chỉ đưa con mình tới những câu lạc bộ tiếng Anh, nhóm học tập để cho trẻ luyện nói tiếng Anh cùng với những người bạn đồng trang lứa, chắc chắn việc học nói tiếng Anh của các trẻ sẽ càng hiệu quả hơn rất nhiều. Các hoạt động ngoại khoá ngoài giờ luôn đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kiến thức và đầy đủ kỹ năng sống cho các bé, tạo nên sự cân bằng giữa việc học tiếng Anh và việc vui chơi, giúp bé giảm căng thẳng, thư giãn hơn sau những giờ học căng thẳng.

2. Cho các bé nói tiếng Anh dựa trên các video hướng dẫn

Học tiếng Anh qua hình ảnh và video hướng dẫn học tiếng Anh lớp 4 là một trong những cách giúp các bé lớp 4 có tư duy ngôn ngữ và đem lại hiệu quả cao trong quá trình học tập. Qua những hình ảnh, màu sắc, âm thanh sinh động qua các kênh video hướng dẫn học tiếng Anh lớp 4, giúp các bé vừa chơi vừa học tiếng Anh. Việc học tiếng Anh lớp 4 qua video mang lại nhiều lợi ích như:

Được xem những video luyện nghe, luyện phát âm chuẩn người bản xứ, tiếp cận với những kiến thức tiếng Anh chuẩn nhất

Đa dạng hóa các nguồn tài liệu tiếng Anh với video sẽ mang giúp các bé bớt nhàm chán và cảm thấy vui vẻ, hào hứng hơn khi trẻ tự học tiếng Anh.

Việc học tiếng Anh lớp 4 trên mạng sẽ chủ động hơn khi trẻ có thể tự do dừng / bật lại bất cứ đoạn nào bé muốn xem lại. Các bé có thể học bao nhiêu tùy thích, học bất cứ lúc nào rảnh, chỉ cần bé có máy tính/điện thoại kết nối Internet.

Có đầy đủ các chương trình học khác nhau, phù hợp với trình độ và nhu cầu học của từng bạn nhỏ, giúp trẻ tìm được những kênh luyện nghe tiếng Anh miễn phí

3. Để bé tự học mọi lúc mọi nơi

Hãy cho bé học tiếng Anh mọi lúc mọi nơi, phụ huynh nên tạo cho con môi trường tiếp xúc tiếng Anh thường xuyên để bé có nhiều cơ hội luyện tập, sử dụng tiếng Anh. Nếu bé thích học tiếng Anh qua bài hát , phụ huynh hãy để cho bé nghe những bài hát tiếng Anh. Hay nếu như bé học thích học tiếng Anh qua phương pháp viết nhật ký, phụ huynh nên khuyến khích những việc mà con yêu thích.

Các bậc phụ huynh hãy khuyến khích trẻ nói nhiều hơn để có thể hướng dẫn hay sửa phát âm chuẩn nhất, ngoài ra, có thể tạo được sự tự tin cho trẻ trong giao tiếp. Đừng để các bé cảm thấy sợ việc nói sai hoặc nói không liền mạch. Hãy luôn khích lệ, động viên con, khi đang tập nói thì việc nói sai hay ngập ngừng thì cũng chẳng có việc gì đáng xấu hổ.

Các bé có thể học tiếng Anh tốt qua những hình ảnh đầy màu sắc và sinh động. Vì vậy, 1 vài quyển truyện có nội dung đơn giản cho trẻ và số lượng từ vựng thường ngày – đây là công cụ hữu ích cho trẻ trong quá trình dạy học tiếng Anh lớp 4, trong quá trình đọc truyện, các bé sẽ có được vốn từ vựng tốt hơn, hỗ trợ cho bé tiếp thu kiến thức tiếng Anh sau này.

Sự bùng nổ của công nghệ thông tin như hiện nay đã dần làm cho thế hệ các bạn trẻ không còn yêu thích văn hóa đọc sách nữa. Tuy nhiên, đọc sách luôn là một trong những phương pháp hữu hiệu giúp trẻ trau dồi kiến thức của mình, hoàn thiện nhân cách và phát triển tư duy con người. Khi học ở trường, giáo viên có thể đọc 1 cuốn truyện tranh bằng tiếng Anh cho các bé nghe trước lớp, qua đó rèn luyện cho các bé kỹ năng đọc sách, tăng vốn từ vựng tiếng Anh.

5. Tạo thói quen sử dụng tiếng Anh tại nhà cho trẻ

Đây là phương thức rất hay là áp dụng thường xuyên để trẻ có khả năng sử dụng thành thạo tiếng Anh trong thời gian ngắn nhất. Bố mẹ hãy tạo ra những nguyên tắc để buộc các bé phải sử dụng tiếng Anh trong các tình huống thông thường trong đời sống hàng ngày. Các thành viên trong gia đình nên thường xuyên chào hỏi, hỏi thăm nhau bằng tiếng Anh thay vì dùng tiếng Việt, cùng với cách sử dụng các cụm từ thông dụng, ví dụ như: “Hi, Good morning” hay trước lúc đi ngủ bé sẽ phải chúc mọi người ngủ ngon: “Sleep well, have a good night.”

Phụ huynh hãy giống như một người gia sư tiếng Anh lớp 4 cho con. Bạn có thể dạy con nói tiếng Anh thường xuyên, gọi tên những đồ vật bằng tiếng Anh, tạo cho con tình huống giao tiếp để con có thể phản xạ ngôn ngữ nhanh. Khả năng tiếp thu tiếng Anh của trẻ sẽ khó có thể nhanh như tiếng mẹ đẻ do môi trường tiếp xúc ít, do vậy, trước khi trẻ có thể sử dụng câu đối thoại dài, bạn cần giúp trẻ làm quen với những từ vựng quen thuộc xung quanh. Như vậy việc nâng cao khả năng cha mẹ sẽ nắm bắt dễ dàng hơn.

Cùng trao đổi về quần áo hay thời trang khi con đang chuẩn bị đồ hoặc khi mẹ con cùng giặt quần áo.

Ôn luyện từ vựng tiếng Anh về đồ chơi hoặc vật dụng trong nhà trong khi cùng con dọn dẹp.

Là người gia sư tiếng Anh lớp 4 cho con, dạy con những từ vựng về thực phẩm, đồ ăn uống mẹ đang khi nấu ăn hoặc mua sắm.

Ở một số tình huống mà trẻ chưa hiểu nội dung trò chuyện, bố mẹ cần phải kiên nhẫn giải thích cho con, hạn chế dùng tiếng Việt khi giao tiếp với con. Điều này đôi khi làm mất nhiều thời gian của bạn nhưng bù lại là phương pháp hữu ích phát triển tư duy của bé.

Kinh Nghiệm Dạy Học Tiếng Anh Lớp 5 Hiệu Quả

Có được một phương pháp dạy học tiếng Anh lớp 5 phù hợp với các bé trong quá trình giảng dạy không chỉ giúp các em đạt được kết quả học tập cao hơn mà còn nâng cao hứng thú học tập của trẻ với bộ môn tiếng Anh. Cả cha mẹ cũng như thầy cô giáo sẽ đặt ra câu hỏi “Phương pháp dạy học tiếng Anh lớp 5 như thế nào là hiệu quả nhất?” Để trả lời cho câu hỏi này, Step Up xin giới thiệu với phụ huynh và các thầy cô một số phương pháp dạy học tiếng Anh lớp 5 hiệu quả nhất giúp cho các bé có thể hoàn thành tốt chương trình tiếng Anh lớp 5.

1. Tạo không khí học tập thoải mái, vui vẻ

Hầu hết các con trong độ tuổi tiểu học nói chung và các bé lớp 5 nói riêng đều không thích phải ngồi một chỗ để học tập. Vì vậy, với một tiết học tiếng Anh trong chương trình tiếng Anh lớp 5 thường có 45 phút, thầy cô có thể điều chỉnh bằng cách dành ra 10 – 15 phút để cho trẻ học tập, thu nạp kiến thức thông qua các hình thức khác nhau.

Ví dụ, vào đầu giờ học thầy cô có thể hướng dẫn các bé tham gia những trò chơi tiếng Anh thú vị, điều này vừa giúp không khí lớp học hào hứng hơn, mà thầy cô vẫn giúp trẻ ôn tập lại được các kiến thức cần học tập.

Trong môi trường thoải mái như vậy thì các bé sẽ cảm thấy vui vẻ, thoải mái hơn chính vì vậy việc tiếp nhận kiến thức cũng tốt hơn và nhanh hơn.

2. Không gây áp lực cho học sinh khi dạy tiếng Anh lớp 5

Không tạo áp lực học tập là một trong những yêu cầu quan trọng được coi trọng nhất trong quá trình dạy học nói chung và dạy học tiếng Anh lớp 5 cho trẻ em nói riêng.

Theo các nghiên cứu của tâm lý học thì khả năng tập trung, ghi nhớ và cả khả năng nhận thức của trẻ ở trong độ tuổi tiểu học vẫn còn tương đối hạn chế cho với người lớn. Không những thế, hầu hết các hoạt động trong quá trình học tiểu học đều có sự chuyển dần từ chơi sang học tập. Chính vì vậy nếu thầy cô hoặc cha mẹ thấy bé có ham chơi thì cũng không nên khó chịu hay la mắng rẻ vì đây là quá trình mà các các bé cần trải qua để có thể phát triển tâm sinh lý một cách bình thường và toàn diện.

Đặc biệt, khi có sự mâu thuẫn giữa cái mà trẻ yêu thích và sự mong đợi của cha mẹ hay thầy cô giáo, sẽ khiến các bé phải chịu rất nhiều áp lực. Nếu điều đó diễn ra thường xuyên có thể dẫn đến 3 trường hợp sau:

Trẻ sẽ nghe và làm theo điều cha mẹ, thầy cô mong muốn nhưng sẽ trở nên nhút nhát, thiếu tự tin và không có chính kiến cá nhân.

Các bé thể hiện thái độ phản kháng của mình bằng cách làm ngược những gì mà cha mẹ, thầy cô mong muốn (mặc dù trẻ không cảm nhận điều đó là đúng hay sai). Điều này sẽ khiến mối quan hệ giữa người lớn và trẻ trở nên nặng nề và không có sự chia sẻ.

Trẻ vẫn làm theo yêu cầu của cha mẹ, thầy cô mong muốn trước mặt, nhưng lại cố gắng làm những điều mình thích sau lưng. Điều này sẽ rất nguy hiểm và khiến trẻ dễ mắc phải các sai lầm.

Phương pháp dạy học tiếng Anh lớp 5

Chắc chắn, cha mẹ hay thầy cô đều sẽ không muốn con em mình rơi vào 3 tình huống trên đúng không? Chính vì vậy, thay vì các lời trách mắng, thầy cô và cha mẹ có thể tìm hiểu những phương pháp dạy tiếng Anh lớp 5 phù hợp nhất để trẻ vừa cảm thấy thoải mái vừa có thể học tập hiệu quả.

Để các con cảm thấy thoải mái nhất khi học chương trình tiếng Anh lớp 5, cha mẹ, thầy cô hãy nên bắt đầu bằng những điều mà bé yêu thích. Và khi các bé đã có sự yêu thích nhất định với tiếng Anh rồi, hãy lồng ghép các kiến thức về ngữ pháp , giao tiếp hay từ vựng mà các bé cần phải học trong chương trình giảng dạy cho bé.

3. Sáng tạo trong quá trình dạy học

Khi học tập tiếng Anh nếu chỉ học qua những cuốn sách học từ vựng tiếng Anh hay sách ngữ pháp chỉ có chữ đen trắng thì chắc chắn bạn sẽ rất nhàm chán đúng không? Với các bạn nhỏ trong độ tuổi tiểu học cũng vậy, nếu sách chỉ có những kiến thức lý thuyết thì các bé sẽ rất khó tiếp thu và không tạo được sự hào hứng học cho bé.

Để có được phương pháp dạy học tiếng Anh lớp 5 hiệu quả nhất, ngoài phần bài giảng tiếng Anh lớp 5 theo chương trình của bộ giáo dục cần được đầu tư kỹ lưỡng thì cách dạy học cũng có có sự thay đổi thường xuyên và cập nhập những phương pháp mới phù hợp với độ tuổi của trẻ cũng như hoàn cảnh mà trẻ đang tiếp xúc.

Với các em học sinh đang ở độ tuổi lớp 5, khả năng ghi nhớ về từ ngữ của trẻ không thực sự tốt, nhưng thay vào đó, khả năng về cảm âm, hay ghi nhớ các hình ảnh trực quan lại vô cùng phát triển.

Do đó, thầy cô và cha mẹ có thể dạy cho bé học tiếng Anh bằng những phương pháp học tập sau:

Luyện phần nghe tiếng Anh chuẩn thông qua các bài hát thiếu nhi tiếng Anh vui nhộn, rộn ràng hay có thể là những bộ phim hoạt hình thú vị phù hợp với độ tuổi của trẻ.

Luyện phát âm chuẩn qua các trò chơi tiếng Anh như tìm từ nối liền, lặp lại nhanh cụm từ thầy cô đã đọc trước đó,…

Cuối cùng để giúp trẻ ghi nhớ kiến thức tốt hãy cho trẻ chơi các trò chơi tiếng Anh có đáp án để các em có thể lặp lại và ghi nhớ kỹ phần kiến thức đã học.

Khi trẻ lớp 5 được học tiếng Anh bằng những cách này chắc chắn trẻ sẽ cảm thấy thoải mái, không bị áp lực mà có giảm giác mình đang được vui chơi. Điều này sẽ giúp bé vừa ghi nhớ và tiếp thu kiến thức mới một cách hiệu quả hơn.

4. Yêu cầu về kinh nghiệm giảng dạy và kỹ năng đối với các thầy cô giáo tiếng Anh

Đầu tiên, giáo viên cần phải có những hiểu biết cơ bản về nền văn hóa của một số quốc gia nói tiếng Anh như các nước Anh, Mỹ, Canada,…

Thầy có cần có khả năng đối chiếu và so sánh giữa nền văn hóa nước ngoài với nền văn hóa của Việt Nam, đồng thời biết cách lồng ghép các nội dung kiến thức văn hóa với kiến thức chuyên ngành.

Biết cách lựa chọn cũng như sử dụng các tài liệu tiếng Anh: tài liệu về từ vựng như sách, truyện, các tài liệu luyện nói như video, bài hát, đĩa DVD,…phù hợp để phục vụ việc giảng dạy

Giáo viên cần có khả năng tổ chức lớp học, và biết cách đánh giá kết quả học tập và năng lực học tập tiếng Anh của trẻ

Có sự đánh giá và điều chỉnh giáo án giảng dạy theo các bài giảng tiếng Anh lớp 5 phù hợp, nhưng phải có sự sáng tạo và cập nhập các kiến thức mới.

Ngoài ra, để trở thành một giáo viên tốt thì thầy cô cần trau dồi cho bản thân mình những kiến thức cơ bản về đặc điểm tâm lý của trẻ, từ đó có thể tìm ra phương pháp dạy học tiếng Anh lớp 5 hiệu quả nhất.