--- Bài mới hơn ---
Sách Luyện Phát Âm Tiếng Pháp Dành Cho Người Học
Tp Hcm Tuyển Sinh Chương Trình Tiếng Pháp Song Ngữ
Học Tiếng Pháp Bằng Hình Ảnh
Những Sai Lầm Nho Nhỏ Khi Học Tiếng Pháp Qua Hình Ảnh
Cách Học Từ Vựng Tiếng Anh Nhanh Và Hiệu Quả Cho Người Mới
1.
Tình hình giảng dạy ngữ pháp tiếng Việt hiện nay
Khi nói đến tình hình giảng dạy ngữ pháp tiếng Việt hiện nay có
nghĩa là nói đến tình hình giảng dạy ngữ pháp ở Việt Nam và ở các
nước trên thế giới.
Ở Việt Nam, chương trình ngữ pháp tiếng Việt và sách giáo khoa có
ghi: “Ngữ pháp chi phối việc sử dụng các đơn vị ngôn ngữ để tạo
thành lời nói, làm cho ngôn ngữ thực hiện được chức năng là công cụ
giao tiếp trong đời sống xã hội “(2). Và dạy ngữ pháp là “ giúp học
sinh có hiểu biết về qui tắc cấu tạo từ, nắm qui tắc dùng từ đặt câu
và tạo văn bản để sử dụng trong giao tiếp”. Tuy nhiên, việc thực
hiện sự hiểu biết nầy lại là vấn đề khác.Theo sách giáo khoa và vở
bài tập cho thấy các bài tập ngữ pháp chưa đáp ứng nguyên tắc giao
tiếp.
Ở Úc, từ năm 1991 đã có chương trình mới dành cho việc dạy ngôn ngữ
khác tiếng Anh
(Languages Other Than English – LOTE), một chương trình dành cho các
lớp từ mẫu giáo đến lớp 10 (Curriculum and Standards Framework –
CSF) và một chương trình dành cho lớp 11 và 12 (Study Design). Cả
hai chương trình đã có chương trình soạn riêng cho tiếng Việt.Trong
các chương trình nầy đều có ghi: ” Mục đích học tiếng Việt: Học sinh
học để giao tiếp bằng tiếng Việt với nhiều mục tiêu và tình huống
khác nhau” (Goals of learning Vietnamese (LOTE): Students learn to
communicate in Vietnamese for many purposes and in many contexts)
and “ Students develop an understanding of the way language works. .
.” (3- trong CSF). Còn ở trong Study Design thì “ Mục tiêu là dùng
tiếng Việt để giao tiếp với người khác và hiểu tiếng Việt như một hệ
thống” (Aims: “Use Vietnamese to communicate with others” and “
understand language as a system(4).
Như vậy, ở Úc đang áp dụng tiến trình giao tiếp nghĩa là dạy cho
học sinh học tiếng Việt để dùng trong giao tiếp và vẫn dạy cho học
sinh hiểu cấu trúc tiếng Việt (ngữ pháp) để dùng tiếng Việt. Tuy
nhiên, hiện nay, chúng ta chưa có một bộ sách ngữ pháp tiếng Việt
thích hợp với phương pháp mới.
Còn ở các nước khác như ở Mỹ, Gia Nã Ðại, Pháp, Nhật, Nam Hàn, Hòa
Lan cũng có những lớp dạy tiếng Việt nhưng thật khó mà thẩm định vì
không có chương trình chính thức, có khi họ theo Úc, có khi họ theo
Việt Nam và cũng có khi họ vẫn giữ theo truyền thống cũng bởi họ
không có chương trình huấn luyện giáo viên tiếng Việt.
2. Quan niệm ngữ pháp trong tiến trình giao tiếp
Trong tác phẩm của Widdowson (5), cho rằng “ mục đích của việc giảng
dạy ngôn ngữ là phát triển khả năng giao tiếp”. Quan điểm chung về
ngôn ngữ là một phương tiện giao tiếp như sau:
a. Ngôn ngữ là một hệ thống để diễn tả ý nghĩa.
b. Chức năng căn bản của ngôn ngữ là dùng để giao tiếp.
c. Cấu trúc ngôn ngữ phản ánh trong chức năng và cách dùng giao tiếp.
d. Ðơn vị cơ bản của ngôn ngữ không phải chỉ là những yếu tố cấu
trúc và ngữ pháp, mà còn là các loại ý nghĩa và chức năng được diễn
đạt trong các thể loại dùng ngôn ngữ ( ngữ thể/ văn bản/ ngôn bản/
text type/ discourse forms).
Vì quan niệm như thế cho nên mọi qui luật cấu trúc hoạt động ngữ
pháp chỉ được rút ra từ căn bản lời nói sinh động, ngữ thể giao tiếp.
Trong một tác phẩm khác, Wilkins nói về quan điểm ngữ pháp như sau:
” An analysis of the communicative meanings that a language learner
needs to understand and expss, rather than describe the core of
language through traditional concepts of grammar and vocabulary”(6).
Có nghĩa là người học cần hiểu và diễn đạt hơn là mô tả điểm chính
của ngôn ngữ bằng quan niệm truyền thống từ pháp và cú pháp.
3. Ngữ pháp tiếng Việt trong một bài học và chương trình tiếng Việt
Khi đã minh định ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp, để trao đổi tư
tưởng , tình cảm thì việc học trước hết phải được học để sử dụng một
phương tiện giao tiếp, tức là hiểu tiếng Việt trong thế vận hành
giao tiếp để học sinh có thể sử dụng tiếng Việt để nghe, nói, đọc và
viết.
Việc dạy lý thuyết và phân tích ngữ pháp tự thân không phải là mục
đích học tiếng Việt, có chăng chỉ là phương tiện để nhận diện các
đơn vị ngữ pháp để hiểu chức năng của chúng, từ đó, sử dụng chúng
trong lời nói, trong giao tiếp.
Ngữ pháp tiếng Việt bao gồm tất cả các qui tắc cấu tạo từ, biến đổi
từ, kết hợp từ thành ngữ (phrase/ cụm từ), thành câu và các qui tắc
liên kết câu để thành đoạn văn và ngữ thể (văn bản/ ngôn bản/ text
type/ discourse forms) ( Phụ Bản A). Ví dụ như cách cấu tạo từ đơn
tiếng Việt cần đơn giản hóa và tổng hợp (Phụ Bản B).
Trong hai chương trình hiện hành, CSF và Study Design đều có đưa ra
những điểm ngữ pháp để học sinh học thực hành: “ The student is
expected to recognise and use the following grammatical items:. . .”
(7)
Như vậy, những qui tắc ngữ pháp nhằm giúp học sinh vận dụng từ hiểu
sang dùng tiếng Việt hơn là ngừng lại ở sự hiểu biết mà thôi.
dấu câu, viết hoa, qui tắc về ngữ điệu khi nói, đọc: khi nói, đọc
hết câu phải nghỉ hơi; Ðọc, nói phải đúng giọng điệu phù hợp với với
các kiểu câu theo mục đích.
Ngày nay, các nhà giáo dục cũng như ngôn ngữ đều cho rằng “đơn vị
giao tiếp nhỏ nhất là lời nói, có nghĩa là câu” (Phụ Bản C). Do đó,
khi dạy ngữ pháp, dù là từ pháp cũng phải rút ra từ căn bản câu: cấu
trúc và phát triển câu. Cũng bởi lý do khi một từ đứng riêng lẻ (ngay
cả thực từ), khó mà xác định ý nghĩa của nó. Ví dụ như các từ chỉ bộ
phận trên cơ thể con người : chân, tay, mặt. . .Trong khi dùng,
chúng ta còn có : Bà Nam có chân trong ban chấp hành. . .Ông Bắc là
một tay quần vợt. . .Ý nghĩa của những từ nầy khác xa với ý nghĩa
chỉ bộ phận trên cơ thể con người.
4. Giảng dạy ngữ pháp tiếng Việt như thế nào?
Khi dạy gữn pháp, thông thường gồm có hai phần: Dạy kiến thức ngữ
pháp và dạy thực hành ngữ pháp.
Việc dạy ngữ pháp, dù là dạy kiến thức ngữ pháp, cũng phải được thực
hiện bằng hệ thống bài tập thích hợp. Quan điểm dạy tiếng Việt là
tạo hoạt động dùng tiếng Việt để giao tiếp, do đó hệ thống bài tập
đi từ (a) nhận diện, phân tích đến (b) tổng hợp ứng dụng vào tình
huống giao tiếp. Các bài tập phải theo nguyên tắc giao tiếp thực
dụng và trực quan.
Ví dụ: Ðề tài học là “Gia đình”.
Cho học sinh nghe đàm thoại sau:
Mary: – Mai ơi! Tôi nghe nói gia đình Việt Nam có đông người lắm,
phải không?
Mai : – Có gia đình đông người và cũng có gia đình ít người. Không
phải gia đình nào cũng đông cả.
Mary: – Như gia đình Mai gồm có những ai?
Mai : -Gia đình mình gồm có ông bà, ba mẹ, anh chị và mình.
Giáo viên đã có dự kiến trước là qua bài đàm thoại nầy, lấy những
điểm ngữ pháp nào để dạy học sinh để có thể soạn bài tập thích hợp.
Mấy điểm cần lưu ý khi chọn điểm ngữ pháp để dạy: thông dụng, dễ và
ít phức tạp.
Từ ví dụ trên, giáo viên có thể chọn điểm ngữ pháp “từ ghép hợp
nghĩa” có nghĩa là một từ ghép bởi hai từ đơn đều có nghĩa. Như từ
ba/ mẹ, ông/ bà, anh/ chị v.v . .và phát triển thêm những từ khác
Bài tập nhận diện, phân tích
-Hãy viết lại 3 từ ghép hợp nghĩa trong bài đàm thoại vừa nghe.
-Nối hai từ lại với nhau trong các từ sau đây để thành từ ghép hợp
nghĩa.
-Hãy tìm phần vị ngữ trong các câu sau đây.
-Hãy thêm dấu hỏi hoặc ngã vào các từ trong các câu sau đây.
-Hãy viết lại các tiếng tính từ trong đoạn văn sau đây.
Sau khi cho học sinh làm một vài bài tập về nhận diện, phân tích,
tiếp theo giáo viên cho học sinh làm bài tập (hay là hoạt động dùng
tiếng Việt) trong tình huống giao tiếp thực và có tính sáng tạo.
Bài tập tổng hợp thực dụng và sáng tạo:
Mục đích dạy câu là dạy cho học sinh diễn đạt ý nghĩ trọn vẹn trong
tình huống giao tiếp. Bài tập đặt câu thực dụng rất quan trọng trong
phát triển lời nói theo tiến trình tự nhiên: đi từ ý đến lời, từ nội
dung đến hình thức câu cụ thể nhằm thỏa mản nhu cầu giao tiếp có
thật chứ không phải chỉ có tình huống học tập trong lớp.
-Ðặt câu với từ “ba mẹ”.
a.) . . . . . . . . . . . . . . . . . ba mẹ. (Em đối với ba mẹ như
thế nào?)
b.) Ba mẹ . . . . . . . . . . . . . . . . . . .(Ba mẹ đã làm gì cho
em?)
c.) . . . . . . . . . . . . . . . . . . ba mẹ vì ba mẹ . . . . . . .
. . . . . . . .)
-Hãy viết một đoạn văn ngắn nói về gia đình của em.
-Xem hình và trả lời các câu hỏi.
-Hãy thêm vào chủ ngữ hoặc vị ngữ để hoàn thành các câu sau đây.
Tóm lại, các bài tập ngữ pháp nhằm luyện cho học sinh kĩ năng nhận
biết một số đơn vị ngữ pháp, cấu trúc ngữ pháp, ngay cả cấu trúc ngữ
âm, nhằm giúp học sinh nói viết theo đúng qui tắc ngữ pháp, chính tả
đồng thời nhận biết cái hay và những tinh hoa của tiếng Việt.
--- Bài cũ hơn ---
Cấu Trúc Ngữ Pháp Tiếng Thái Đơn Giản
Ngữ Pháp Trong Tiếng Tiếng Thụy Điển
Ngữ Pháp :: Chúng Ta Cùng Học Tiếng Thụy Điển
Hệ Song Ngữ Tiếng Pháp (Năm 2022)
Giải Thích Ngữ Pháp Tiếng Anh Mai Lan Hương