Cập nhật nội dung chi tiết về Tăng Cường Tiếng Việt Cho Trẻ Em Dân Tộc Thiểu Số mới nhất trên website Maytinhlongthanh.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Thực hiện Kế hoạch số 45 ngày 23/3/2017 của UBND tỉnh về việc triển khai thực hiện Đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tôc thiểu số, giai đoạn 2016 – 2020, định hướng đến 2025”, những năm vừa qua, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện đã triển khai nhiều giải pháp, đổi mới trong cách dạy và học. Nhờ đó, việc dạy và học tiếng Việt cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số (DTTS) trên địa bàn huyện đã có những chuyển biến tích cực.
Tiết học tăng cường tiếng Việt của cô và trò tại phần trường Bản Tèn
Là một trong những cô giáo thực hiện Đề án ở điểm trường Liên Phương, cô giáo Chu Thị Dung chia sẻ: Nơi tôi đang dạy 100% là con em dân tộc Mông, ít được tiếp xúc với các phương tiện thông tin đại chúng nên rất nhút nhát và hạn chế về vốn Tiếng việt. Nhiều em không hiểu lời cô giáo nói nên cô đã phải tìm những lời nói ngắn gọn và phương pháp truyền đạt dễ hiểu nhất.
Anh Giàng A Thênh, phụ huynh của cháu Giàng Thị Hồng Loan, học sinh lớp mẫu giáo 4 -5 tuổi điểm trường Bản Tèn cho biết: Vợ chồng mình ở nhà thường giao tiếp bằng tiếng của dân tộc Mông nên khi con được 3 tuổi đi học thấy cô giáo nói tiếng Việt rất bỡ ngỡ. Tuy nhiên, qua 1 năm đi học, đến nay, về nhà cháu có thể kể lại các hoạt động ở lớp bằng tiếng việt, nói tên được những bài hát cô giáo dạy ở trường hoặc kể tên các bạn trong lớp. Để giúp con nói tiếng Việt tốt hơn, hiện nay, thay vì nói tiếng dân tộc như trước, vợ chồng mình chuyển sang giao tiếp với nhau và với cháu bằng tiếng Việt.
Bà Đoàn Thị Huyền, Phó Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo huyện cho biết: Thực hiện Đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non, học sinh tiểu học dân tộc thiểu số”, đã triển khai tại 16 trường, 39 điểm trường, với 6.768 trẻ được tăng cường tiếng Việt. Đây là những trường, điểm trường có tỷ lệ trẻ em mầm non và học sinh DTTS chiếm cao trên địa bàn cần tăng cường tiếng Việt. Để thực hiện Đề án có hiệu quả, Phòng đã tham mưu cho UBND huyện xây dựng kế hoạch, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho các trường. Từ năm 2017 đến nay, huyện đã đầu tư trên 93,4 tỷ đồng để cải tạo, sửa chữa, xây mới các phòng học; mua sắm trang thiết bị dạy và học cho các trường trên địa bàn. Kết quả rõ nhất sau khi thực hiện Đề án đến nay, đó là 50% trẻ em độ tuổi nhà trẻ, 90% trẻ em độ tuổi mẫu giáo và 100% trẻ em 5 tuổi, học sinh tiểu học người DTTS đã được tăng cường tiếng Việt phù hợp với độ tuổi; Tỷ lệ trẻ em DTTS tự tin giao tiếp bằng tiếng Việt tăng hơn từ 40-50%; 100% cán bộ quản lý, giáo viên được bồi dưỡng chuyên sâu về kiến thức, kỹ năng, phương pháp, cách thức tổ chức hoạt động tăng cường tiếng Việt. Năm 2020, đã có 2 cô giáo dạy ở điểm trường Liên Phường và Bản Tèn được Bộ Giáo dục và Đào tạo tặng Bằng khen vì có thành tích xuất sắc trong việc “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non, học sinh tiểu học, vùng dân tộc thiểu số” giai đoạn 2016-2020./.
Quang Hải (Trung tâm Văn hoá – Thể thao và Truyền thông Đồng Hỷ)
Tăng Cường Tiếng Việt Cho Học Sinh Dân Tộc Thiểu Số
Cô giáo Nguyễn Thị Điềm-Trường Tiểu học Kông Lơng Khơng (huyện Kbang) ôn tập hè cho học sinh lên lớp 2. Ảnh: N.G
Sự nhiệt tình của các giáo viên còn thể hiện ở chỗ nắm rõ danh sách học sinh, kịp thời phát hiện những em vắng mặt để vào tận nhà đón các em ra lớp. Ghi nhận tâm huyết của các thầy-cô giáo, chị Đinh Thị Khanh-một phụ huynh ở làng Bờ-nói: “Năm nay con tôi lên lớp 2, hè ở nhà không có ai giúp cháu học nên trường tổ chức dạy hè thế này rất bổ ích. Có hôm vợ chồng tôi vội đi làm không chở cháu đến trường được thì các cô vào tận nhà đón cháu đi. Sau này, tôi thấy các thầy cô vất vả quá nên ngày nào cũng cố gắng chở con đến trường rồi mới đi làm”. Cũng theo chị Khanh, dù con đi học hè nhưng gia đình chị không phải tốn kém gì vì sách, vở, bút đều được nhà trường hỗ trợ đầy đủ.
Trao đổi thêm về việc tổ chức ôn tập hè cho học sinh, thầy Phạm Xuân Trường-Phó Hiệu trưởng Trường Tiểu học Kông Lơng Khơng-cho biết: “Nhà trường thống nhất ôn tập cho các em trước 1 tháng. Trong đó, chúng tôi ưu tiên cho học sinh lớp 1, lớp 2 để củng cố vững chắc vốn tiếng Việt, làm tiền đề cho các em học tập các môn văn hóa khác”.
Được biết, theo chỉ đạo của Sở Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT), 100% trường học vùng dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh đã tổ chức ôn tập hè cho học sinh 2-3 tuần trước khi bước vào năm học mới.
Đẩy nhanh đề án tăng cường tiếng Việt
Năm 2016, UBND tỉnh ban hành đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025”. Sở GD-ĐT đã tổ chức việc thực hiện đề án với mục tiêu: đảm bảo trẻ mầm non và học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số có đủ kỹ năng cơ bản trong việc sử dụng tiếng Việt để hoàn thành chương trình giáo dục; tạo tiền đề để các em học tập, lĩnh hội tri thức các cấp học tiếp theo, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và tạo sự phát triển bền vững cho vùng dân tộc thiểu số. Theo đó, toàn tỉnh phấn đấu đến năm 2020 có ít nhất 35% trẻ em dân tộc thiểu số trong độ tuổi nhà trẻ, 90% trẻ 5 tuổi được tập trung tăng cường tiếng Việt phù hợp theo độ tuổi.
Ngành GD-ĐT cũng đã phối hợp với các ban ngành, đoàn thể địa phương xây dựng môi trường giao tiếp tiếng Việt tại gia đình, cộng đồng thôn, làng để tạo điều kiện cho học sinh rèn luyện kỹ năng nói. Trong năm học này, Sở GD-ĐT cũng đã có kế hoạch bồi dưỡng, tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số; tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện đề án ở các địa phương, đồng thời xây dựng bản đồ ngôn ngữ tại những vùng có nhiều dân tộc thiểu số.
Trao đổi thêm về vấn đề này, ông Nguyễn Văn Đông-Trưởng phòng Giáo dục Tiểu học (Sở GD-ĐT) cho biết: “Ngành giáo dục phấn đấu hàng năm có 100% học sinh dân tộc thiểu số được tăng cường tiếng Việt; 95% học sinh dân tộc thiểu số hoàn thành chương trình, đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn Tiếng Việt cấp tiểu học. Phấn đấu đến năm 2025, 100% học sinh dân tộc thiểu số đảm bảo chuẩn về chất lượng để học tốt chương trình THCS. Để đẩy nhanh tiến độ, chúng tôi đã chỉ đạo các đơn vị tăng cường tiếng Việt trong hè cho học sinh trước 2-3 tuần để các em sẵn sàng cho năm học mới. Đối với học sinh lên lớp 1, sự chuyển tiếp từ bậc mầm non lên tiểu học được coi là giai đoạn rất quan trọng khi các em bước vào môi trường học kiến thức thực sự sau khi kết thúc bậc mầm non mang tính chất học mà chơi, chơi mà học. Do đó, các trường cần ưu tiên để giúp các em không gặp nhiều khó khăn khi bước vào chương trình học mới”.
Tăng Cường Dạy Tiếng Việt Cho Học Sinh Dân Tộc Thiểu Số
Những năm qua, ngành giáo dục Yên Bái đã có nhiều chủ trương, giải pháp nhằm tăng cường tiếng Việt cho học sinh mầm non, tiểu học. Qua đó, tỷ lệ học sinh mầm non ra lớp theo đúng độ tuổi đạt gần 100%, học sinh tiểu học dân tộc thiểu số đã mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Mỗi lớp 1, 2 trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học nậm Lành, huyện Văn Chấn có thêm một trợ giảng hỗ trợ giáo viên và học sinh. Ảnh: Đức Tưởng/TTXVN
Trường Mầm non xã Suối Giàng, huyện Văn Chấn có 26 giáo viên phụ trách 322 trẻ (trong đó có 320 trẻ là người Mông), hầu hết các trẻ đều chưa nói sõi tiếng Việt. Cô giáo Nguyễn Thị Thương, Hiệu trưởng Trường Mầm non xã Suối Giàng cho biết, để học sinh có thể nói được tiếng Việt ngay từ nhỏ, nhà trường thường xuyên lồng ghép, tổ chức hoạt động sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt kết hợp với văn hóa dân tộc, nghe kể chuyện dân gian, đọc thơ, ca dao. Đặc biệt, nhà trường còn tổ chức hội thi, ngày hội đọc sách, tổ chức hoạt động vui chơi gắn với tiếng Việt, trong đó tập trung vào việc luyện phát âm ngọng cho trẻ…
Cùng với đó, nhà trường chỉ đạo giáo viên viết bằng chữ in thường lên các khu vui chơi của trẻ, đồ dùng, đồ chơi ngoài trời, cây xanh, cây hoa để trẻ có thể luyện phát âm; khuyến khích trẻ giao tiếp với cô giáo và các bạn bằng tiếng Việt. Trong quá trình dạy – học và tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, giáo viên rèn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, mở rộng vốn từ tiếng Việt, sửa lỗi phát âm, dùng từ, đặt câu cho trẻ. Nhờ vậy, hàng năm, nhà trường đều huy động tối đa trẻ 5 tuổi ra lớp và hoàn thành chương trình giáo dục mầm non. Trẻ đã nhận biết, phát âm tương đối đúng theo bộ chữ cái tiếng Việt, có kỹ năng cơ bản khi vào lớp 1.
Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Nậm Lành, huyện Văn Chấn có 441 học sinh, trong đó 438 học sinh dân tộc thiểu số. Vì vậy, nhà trường đã triển khai nhiều biện pháp để tăng cường tiếng Việt cho các em, tạo thuận lợi cho việc giảng dạy, tiếp thu của giáo viên, học sinh.
Đặc biệt, từ khi dự án nâng cao khả năng tiếp cận tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số (thuộc tổ chức KOICA, Hàn Quốc) được triển khai tại trường, việc tăng cường tiếng Việt cho học sinh thuận lợi hơn. Theo dự án, đối với lớp 1, 2, mỗi lớp sẽ có thêm một trợ giảng, trợ giảng là người tại địa phương và được hỗ trợ gần hai triệu đồng/tháng. Mỗi trợ giảng có vai trò là cầu nối, người truyền tải thông tin giữa giáo viên và học sinh.
Trợ giảng Lò Thị Oanh chia sẻ, khi được đứng trên lớp cùng giáo viên và học sinh, cô thấy giữa học sinh – giáo viên có khoảng cách lớn bởi không cùng tiếng nói chung. Giáo viên khó khăn trong việc truyền tải tri thức cho các em, còn học sinh muốn học nhưng không hiểu thầy cô đang nói gì. Từ khi cô làm trợ giảng, việc học tập của học sinh cũng thuận lợi hơn.
Cô giáo Trần Thị Thu Hằng cho biết, trước đây, khi chưa có trợ giảng, mỗi tiết học sẽ kéo dài hơn bởi nhiều câu hỏi các em giáo viên không hiểu. Nhờ có trợ giảng mà hoạt động dạy và học mang lại hiệu quả cao, các em đã tự tin hơn trong giao tiếp.
Phó Hiệu trưởng Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Nậm Lành, huyện Văn Chấn Trịnh Văn Toán cho biết, do các em chủ yếu là người dân tộc thiểu số nên khó khăn lớn nhất của học sinh khi đến trường là khả năng sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp, học tập. Từ khi tỉnh triển khai đề án tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số và dự án nâng cao khả năng tiếp cận tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số tại trường với nhiều hỗ trợ và hoạt động thực tế đã giúp các em tự tin giao tiếp.
Ông Lê Quang Minh, Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Văn Chấn cho biết, trên địa bàn huyện có nhiều xã ở vùng sâu, vùng xa, chủ yếu đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Để các em có thể nói thành thạo tiếng Việt ngay từ nhỏ, phòng đã chỉ đạo các trường xây dựng mô hình thư viện tại trường; tổ chức ngày hội đọc sách, hội thi giao lưu tiếng Việt giúp học sinh dân tộc thiểu số tự tin, mạnh dạn hơn trong giao tiếp. Đến nay, 100% trẻ em dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện được tăng cường tiếng Việt; hơn 90% trẻ trên 5 tuổi có thể nghe, hiểu và trả lời bằng tiếng Việt.
Bên cạnh đó, Phòng luôn cụ thể hóa đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016 – 2020, định hướng đến năm 2025” của tỉnh trong thực hiện nhiệm vụ năm học của các cấp học, với nhiều hoạt động đa dạng, phong phú. Ngoài ra, nhiều chương trình, dự án, chính sách hỗ trợ của Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh dân tộc thiểu số trong quá trình học tập, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục tại địa phương.
Thời gian tới, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Văn Chấn chỉ đạo các trường học tiếp tục duy trì mô hình thư viện tại trường, ngày hội đọc sách và hội thi giao lưu tiếng Việt; khuyến khích các thầy cô giáo đề xuất ý tưởng, cách làm mới về tăng cường tiếng Việt cho học sinh; tăng cường thời gian luyện nói cho học sinh trong các giờ học chính khóa, sinh hoạt đội, sao nhi đồng. Các trường lồng ghép hoạt động vui chơi gắn với học tiếng Việt cho học sinh để các em thành thạo tiếng Việt, tự tin tham gia hoạt động chung của trường…
Đề Tài Một Số Biện Pháp Tăng Cường Tiếng Việt Cho Học Sinh Dân Tộc Thiểu Số
Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm phối hợp chặt chẽ với giáo viên bộ môn để tăng cường tiếng Việt cho học sinh trong tất cả các môn học (giáo viên chủ nhiệm lập danh sách những học sinh cần tăng cường tiếng Việt cho giáo viên bộ môn, giáo viên bộ môn dành thời gian trong mỗi tiết học để tăng cường tiếng Việt cho học sinh).
– Riêng khối lớp một, chỉ đạo giáo viên thực hiện phương án tăng thời lượng tiếng Việt từ 350 tiết lên 500 tiết (3 tiết/ bài) đối với chương trình hiện hành ( trong những năm học trước và năm học 2016-2017).
Bên cạnh việc thực hiện tăng cường tiếng Việt cho học sinh trong tất cả các môn học, việc tổ chức dạy học môn Tiếng Êđê cho học sinh dân tộc thiểu số trong nhà trường cũng rất cần thiết. Học tiếng mẹ đẻ không chỉ giúp học sinh biết giữ gìn những bản sắc văn hóa riêng, chữ viết của dân tộc mình mà còn hỗ trợ đắc lực cho các em trong việc học tập các môn học khác, đặc biệt là môn tiếng Việt.
Để giúp giáo viên thực hiện hiệu quả các biện pháp tăng cường tiếng Việt trong các môn học, lãnh đạo nhà trường phải thực sự đồng hành cùng giáo viên. Thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, dự giờ thăm lớp, lãnh đạo nhà trường góp ý, chia sẻ và cùng giáo viên tháo gỡ những khó khăn trong quá trình thực hiện.
Bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn về công tác tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số là một trong những khâu quan trọng giúp giáo viên thực hiện hiệu quả các biện pháp tăng cường tiếng Việt cho học sinh. Thông qua các hình thức sinh hoạt chuyên môn, nhà trường chú trọng bồi dưỡng cho giáo viên một số vấn đề cơ bản sau: – Bản chất của tăng cường tiếng Việt là giúp học sinh chưa biết hoặc biết nói ít tiếng Việt có thể học tập các môn học trong hệ thống giáo dục sử dụng tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức. Tăng cường tiếng Việt không có nghĩa là tăng thêm lượng kiến thức mà chúng ta có thể giảm bớt hay nói cách khác là điều chỉnh lượng kiến thức làm cho nó dễ hiểu hơn, phù hợp hơn với đối tượng học sinh. – Tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số có vai trò quan quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục học sinh. Bởi vì, đối với học sinh dân tộc thiểu số tiếng Việt là ngôn ngữ thứ 2. Học sinh học bằng ngôn ngữ 1 (NN1) so với ngôn ngữ 2 (NN2) có sự khác biệt, cụ thể: + Học sinh học bằng NN1 có vốn tiếng Việt khoảng 4000 từ (trước khi đi học), tư duy trực tiếp bằng TV (tiếp cận TV tự nhiên), tiếp thu ngôn ngữ hiệu quả từ nghe – nói – đọc – viết và có tác động tích cực của gia đình, cộng đồng. + Học sinh học bằng NN2 thường không biết hoặc biết ít tiếng Việt, tư duy gián tiếp (tiếp cận tiếng Việt áp đặt), tiếp thu tiếng Việt hạn chế do không hình thành ngay được mối liên hệ giữa âm thanh và chữ viết, giữa âm thanh và ngữ nghĩa – ngữ pháp. Các em ít nhận được tác động từ môi trường gia đình, cộng đồng và chịu sự ảnh hưởng tiêu cực của tiếng mẹ đẻ. – Khi thực hiện tăng cường tiếng Việt cho học sinh, giáo viên cần giúp các em tiếp cận với kiến thức, kĩ năng các môn học thông qua kinh nghiệm mà các em trích lũy được trước đó (có thể bằng tiếng mẹ đẻ), theo mức độ từ dễ đến khó. Chú ý đến học sinh, đến cuộc sống và môi trường học tập của các em, tạo điều kiện để học sinh được học tập theo đặc điểm cá nhân. Vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học khác nhau nhằm lôi cuốn học sinh tham gia tích cực vào các hoạt động học tập. Sử dụng đồ dùng học tập đa dạng, thường xuyên trong các hoạt động học tập. Hiểu được sự khác biệt giữa học sinh kinh và học sinh dân tộc thiểu số khi học tiếng việt sẽ giúp giáo viên lựa chọn được những phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh dân tộc thiểu số ở địa phương; tạo điều kiện thuận lợi để giúp học sinh học bằng NN2 lấp được chỗ trống về sự chênh lệch khoảng 4000 từ (trước khi đến trường). b.2. Thực hiện hiệu quả công tác Chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ trước tuổi đến trường Chuẩn bị tiếng Việt là bước đầu của tăng cường tiếng Việt. Chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trước khi học lớp một giúp các em có thể nghe hiểu một số câu, từ ngữ để giao tiếp với giáo viên, bạn bè; nhận diện được các chữ cái tiếng Việt, biết cách cầm bút, tư thế ngồi viết, thuộc một số bài hát, các nề nếp học tập…; có tâm thế sẵn sàng đi học, học các môn học và thực hiện các hoạt động giáo dục. Công tác chuẩn bị tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số thường được tổ chức trong dịp hè, trong khoảng thời gian một tháng vào trước năm học. Để thực hiện hiệu quả công tác này, trước hết, lãnh đạo nhà trường cần xây dựng kế hoạch Chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trước khi học lớp một; phân công nhiệm vụ cụ thể và triển khai kế hoạch kịp thời đến từng giáo viên trong trường; phối hợp tốt với thôn buôn và cha mẹ học sinh điều tra vận động học ra lớp. Chương trình học được thực hiện theo chương trình “Tập nói tiếng Việt cho học sinh dân tộc” theo tài liệu “Kế hoạch bài học Chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ em trước tuổi đến trường” của Bộ (tài liệu được cấp phát cho giáo viên tập huấn hè 2008), gồm 60 bài, 180 tiết. Căn cứ vào đối tượng HS cụ thể của từng lớp, lãnh đạo nhà trường chỉ đạo giáo viên lựa chọn một số nội dung ở tài liệu (phù hợp với đối tượng) để dạy cho trẻ. Ví dụ: – Căn cứ vào tình hình thực tế của đơn vị, giáo viên lựa chọn số lượng, thời lượng bài dạy cụ thể trong thời gian một tháng như sau: Tổng số bài dạy là 30 bài, mỗi bài học trong 03 tiết, mỗi tiết khoảng 30 phút, sau mỗi tiết học có 05 phút chuyển tiết, giữa mỗi buổi học có 15 phút để vui chơi. – Trong mỗi tiết học, ngoài thời gian tập nói, giáo viên dành từ 15 đến 20 phút để hướng dẫn học sinh tập nhận diện các chữ cái từ dễ đến khó, tập tô, tập viết các âm vần. Để đạt hiệu quả tốt, giáo viên cần tăng cường việc sử dụng đồ dùng dạy học (các thiết bị dạy học, tranh ảnh trực quan, đồ dùng dạy học tự làm…), tuyệt đối tránh dạy chay, hình thức. Cuối đợt học, giáo viên tổ chức khảo sát với từng học sinh để có kế hoạch phụ đạo, bồi dưỡng trong năm học. Đa số học sinh tham gia học tập là học sinh dân tộc thiểu số có hoàn cảnh gia đình khó khăn nên không thể vận động các em đóng góp để chi trả tiền bồi dưỡng cho giáo viên. Vì vậy, nhà trường có thể trích nguồn kinh phí chi thường xuyên của đơn vị để động viên, bồi dưỡng cho giáo viên trực tiếp giảng dạy. b.3. Tăng cường tiếng Việt trong các môn học Như chúng ta đã biết, trong điều kiện thực hiện một chương trình và một bộ sách giáo khoa, dù dạy học các môn học, bài học bằng tiếng Vệt cho học sinh Kinh hay học sinh dân tộc thiểu số thì giáo viên đều phải bám sát một chuẩn chung quốc gia về kiến thức và kĩ năng của các môn học. Để đáp ứng chuẩn này, khi dạy học các môn học cho học sinh dân tộc thiểu số, giáo viên cần tiến hành một số biện pháp tăng cường tiếng Việt nhằm giúp học sinh học bằng tiếng Việt có hiệu quả. – Chỉ đạo giáo viên chủ động điều chỉnh nội dung, thời lượng dạy học các môn học khác để tập trung vào dạy môn Tiếng Việt, Toán. – Thực hiện dạy học phân hóa đối tượng học sinh như: phân hóa theo sở thích, khả năng tiếp thu, đặc điểm cá nhân của học sinh,… – Sử dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học; tăng cường tổ chức dạy học theo nhóm, trò chơi học tập; sử dụng đồ dùng dạy học thường xuyên, có hiệu quả; khuyến khích sử dụng các trò chơi học tập để tăng cường tiếng Việt và yêu thích tiếng Việt cho học sinh. – Tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích giáo viên tự học tiếng mẹ đẻ của học sinh để giúp các em vượt qua rào cản ngôn ngữ (có thể sử dụng song ngữ để giải nghĩa từ,) – Sử dụng hiệu quả đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh “Tài liệu bổ trợ tiếng Việt 1,2,3″ để tăng cường tiếng Việt cho học sinh trong các buổi học thứ hai. – Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm phối hợp chặt chẽ với giáo viên bộ môn để tăng cường tiếng Việt cho học sinh trong tất cả các môn học (giáo viên chủ nhiệm lập danh sách những học sinh cần tăng cường tiếng Việt cho giáo viên bộ môn, giáo viên bộ môn dành thời gian trong mỗi tiết học để tăng cường tiếng Việt cho học sinh). – Riêng khối lớp một, chỉ đạo giáo viên thực hiện phương án tăng thời lượng tiếng Việt từ 350 tiết lên 500 tiết (3 tiết/ bài) đối với chương trình hiện hành ( trong những năm học trước và năm học 2016-2017). Bên cạnh việc thực hiện tăng cường tiếng Việt cho học sinh trong tất cả các môn học, việc tổ chức dạy học môn Tiếng Êđê cho học sinh dân tộc thiểu số trong nhà trường cũng rất cần thiết. Học tiếng mẹ đẻ không chỉ giúp học sinh biết giữ gìn những bản sắc văn hóa riêng, chữ viết của dân tộc mình mà còn hỗ trợ đắc lực cho các em trong việc học tập các môn học khác, đặc biệt là môn tiếng Việt. Để giúp giáo viên thực hiện hiệu quả các biện pháp tăng cường tiếng Việt trong các môn học, lãnh đạo nhà trường phải thực sự đồng hành cùng giáo viên. Thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, dự giờ thăm lớp, lãnh đạo nhà trường góp ý, chia sẻ và cùng giáo viên tháo gỡ những khó khăn trong quá trình thực hiện. b.4. Xây dựng môi trường học tiếng Việt cho học sinh b.4.1. Xây dựng môi trường học tiếng Việt trong nhà trường Những ấn tượng trực giác hết sức quan trọng đối với trẻ em, đặc biệt là giai đoạn đầu của bậc tiểu học. Nếu hằng ngày học sinh học sinh được tiếp xúc với một không gian lớp học và trường học tiếng Việt, thì chắc chắn tiếng Việt sẽ dần dần được khắc sâu vào trí nhớ của các em. Vì vậy, xây dựng môi trường học tiếng Việt trong nhà trường là một trong những yếu tố giúp giáo viên thực hiện hiệu quả công tác tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số. Tùy vào tình hình thực tiễn, nhà trường định hướng cho giáo viên tạo cảnh quan tiếng Việt phù hợp. Ví dụ: – Đối với không gian trường học tiếng Việt có thể là: khẩu hiệu, áp phích, bản tin,; tên lớp, tên phòng chức năng, Bên cạnh đó, nhà trường cần thực hiện tốt việc xây dựng mô hình thư viện trường học thân thiện: thư viện xanh, thư viện lớp học, thư viện lưu động,Tăng cường các hoạt động giao tiếp trong trường học, lớp học thông qua hoạt động học tập, vui chơi,để thực hiện hiệu quả xây dựng môi trường học tiếng Việt trong nhà trường. b.4.2. Xây dựng môi trường học tiếng Việt trong gia đình – Khảo sát để nắm được điều kiện cụ thể của từng gia đình học sinh như: ti vi, sách báo, góc học tập, – Xây dựng kế hoạch vận động, hướng dẫn cha mẹ học sinh tạo môi trường tiếng Việt phù hợp với điều kiện từng gia đình, như: tạo góc học tập cho con em, đóng bàn ghế học tập, chọn vị trí đặt bàn học đủ ánh sáng, trang trí góc học tập (thời khóa biểu, giấy khen,); hướng dẫn cha mẹ học sinh tạo điều kiện về thời gian và nhắc nhở con em học bài, quan sát việc học của con em, nhắc nhở con em nghe radio, xem ti vi, đọc sách báo (nếu gia đình có), khuyến khích cha mẹ học sinh giao tiếp với con bằng tiếng Việt, b.4.3. Tổ chức hiệu quả các hoạt động ngoài giờ lên lớp Hoạt động ngoài giờ lên lớp đóng một vai trò quan trọng góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh, thực hiện mục tiêu giáo dục trong nhà trường. Chính từ những hoạt động như: hoạt động tập thể, hoạt động xã hội,…không chỉ trang bị cho các em những kiến thức cơ bản mà còn góp phần thực hiện hiệu quả việc tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số, trau dồi cho các em những kĩ năng sống, kĩ năng giao tiếp, hình thành nhân cách học sinh, đem lại niềm vui cho các em khi đến trường. Để tổ chức hiệu quả các động ngoài giờ lên lớp, chúng tôi đã giao nhiệm vụ cho Tổng phụ trách đội phối hợp với Bí thư đoàn trường căn cứ hướng dẫn về hoạt động ngoài giờ lên lớp của Phòng Giáo dục và Đào tạo, nhiệm vụ năm học của nhà trường và đối tượng học sinh để xây dựng kế hoạch hoạt động ngoài giờ lên lớp ngay từ đầu năm. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá việc triển khai thực hiện kế hoạch, rút kinh nghiệm và có sự điều chỉnh phù hợp trong quá trình thực hiện. * Một số hình ảnh Tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp H1: Hội thi Phụ trách đội giỏi H2: Tổ chức các trò chơi dân gian trong tiết Hoạt động tập thể đầu tuần Bên cạnh việc tổ chức các hội thi, xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp cũng là một trong những tiêu chí được nhà trường hết sức quan tâm. Trước hết, phải xác định mục tiêu rõ ràng để giáo viên và học sinh thực hiện: giữ vệ sinh khuôn viên trường, vệ sinh nguồn nước, hệ thống thoát nước; giữ gìn vệ sinh và cảnh quan môi trường, có nhiều cây xanh bóng mát trong sân trường,… Tổ chức cho học sinh chăm sóc cây thường xuyên; vệ sinh phòng học đủ ánh sáng, thoáng mát, bàn ghế đúng qui cách, đủ chỗ ngồi; trang trí lớp học thân thiện. Tổ chức hiệu quả các hoạt động tập thể lành mạnh giúp xây dựng mối quan hệ tốt giữa thầy và trò, trò và trò. Giúp học sinh có kĩ năng giao tiếp bằng tiếng Việt, ứng xử hợp lí các tình huống trong cuộc sống, kĩ năng làm việc và học tập theo nhóm, có ý thức rèn luyện và bảo vệ sức khoẻ, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội vì vậy, trong những năm học gần đây, không có tai nạn đáng tiếc nào xẩy ra với học sinh. Các em tự tin hơn trong giao tiếp, tích cực, tự giác hơn trong việc chấp hành các nội quy của nhà trường. b.5. Tăng cường công tác vận động duy trì sĩ số, tăng tỉ lệ chuyên cần Duy trì sĩ số, đảm bảo chuyên cần đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng học tập của học sinh nói chung và công tác tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số nói riêng. Nó là nền tảng giúp các em lĩnh hội kiến thức một cách đầy đủ và mang lại kết quả học tập tốt nhất. Để làm tốt công tác duy trì sĩ số, tăng tỉ lệ chuyên cần, chúng tôi đã thực hiện một số biện pháp sau: b.5.1. Công tác phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Bác Hồ đã chỉ rõ: ” Giáo dục các em là việc chung của gia đình, nhà trường và xã hội. Bố mẹ, thầy giáo và người lớn phải cùng nhau phụ trách, trước hết là phải làm gương cho các em hết mọi việc”. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của việc phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong công tác giáo dục học sinh. Muốn công tác phối hợp đạt hiệu quả cao, trước hết nhà trường phải thực sự là trung tâm văn hóa giáo dục ở địa phương. Luôn gương mẫu trong việc gìn giữ môi trường tự nhiên và môi trường xã hội ở địa phương. Từ đó, địa phương sẽ đồng thuận, đồng lòng, đồng sức tham gia xây dựng nhà trường, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa hai bên. Chuẩn bị cho năm học mới, ban giám hiệu nhà trường đã tổ chức thống kê số liệu học sinh đầu năm; tích cực tham mưu với cấp ủy, chính quyền phối hợp cùng các ban ngành đoàn thể địa phương tập trung truyên truyền lồng ghép trong các buổi họp thôn buôn, thông qua đài truyền thanh của xã về ngày toàn dân đưa trẻ đến trường. Làm tốt công tác tuyển sinh trẻ trong độ tuổi vào lớp 1. Đối với những gia đình ở xa thôn buôn, chúng tôi phân công giáo viên dân tộc tại chỗ đến tận nhà học sinh để vận động cha mẹ học sinh đưa trẻ đến trường nhập học. Sau ngày tựu trường, chỉ đạo giáo viên nắm tình hình sĩ số học sinh đến lớp, tìm hiểu nguyên nhân những học sinh chưa ra lớp, phối hợp với ban đại diện cha mẹ học sinh, chính quyền thôn buôn tìm biện pháp vận động phù hợp với từng đối tượng học sinh để huy động tối đa số học sinh trong độ tuổi đến trường. Thường xuyên kiểm tra việc đi học chuyên cần của học sinh nhằm phát hiện kịp thời những đối tượng học sinh có nguy cơ bỏ học để có giải pháp khắc phục, không để học sinh bỏ học lâu ngày rồi mới tìm hiểu nguyên nhân và vận động. Phối hợp với ban chỉ đạo xã tuyên truyền nâng cao nhận thức của gia đình và cộng đồng về vai trò của công tác giáo dục. Vận động các gia đình tạo điều kiện cho con em được đi học và thường xuyên quan tâm đến việc học của con em mình. Tham mưu với các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể cùng quan tâm chăm lo cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo của địa phương. Từ đó, huy động các nguồn lực và các lực lượng tích cực vận động học sinh đi học, học sinh bỏ học trở lại trường, hỗ trợ kịp thời những gia đình khó khăn để con em họ được đến trường như: hỗ trợ quần áo, sách vở, đồ dùng học tập… b.5.2. Phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm Giáo viên chủ nhiệm có vai trò quan trọng trong việc giúp nhà trường thực hiện tốt công tác giáo dục học sinh, trong đó có công tác duy trì sĩ số. Một giáo viên chủ nhiệm tốt không chỉ giúp lớp mình học tốt mà còn biết cách để giúp học sinh siêng năng học tập, yêu thích đến trường và làm tốt công tác duy trì sĩ số học sinh. Phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong công tác duy trì sĩ số, đảm bảo chuyên cần, ngay sau khi tổ chức bàn giao chất lượng học sinh, chúng tôi tổ chức giao nhiệm vụ, chỉ tiêu duy trì sĩ số học sinh cho từng giáo viên chủ nhiệm lớp, xem đó là một trong những tiêu chí quan trọng để xét thi đua cuối năm. Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm kiểm tra thường xuyên việc đi học chuyên cần của học sinh. Nếu học sinh nghỉ học không có lý do quá hai ngày, giáo viên chủ nhiệm có trách nhiệm đến nhà học sinh để vận động các em trở lại lớp. Trường hợp học sinh vẫn không ra lớp sau khi đã được vận động thì phải báo ngay cho ban giám hiệu nhà trường để kịp thời phối hợp ban đại diện cha mẹ học sinh, chính quyền địa phương có biện pháp vận động học sinh đi học lại. Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên phối hợp chặt chẽ với gia đình để giáo dục học sinh. Ngoài ra, giáo viên chủ nhiệm cần hướng dẫn, khuyến khích học sinh tham gia tích cực các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Bằng việc tham gia các hoạt động ngoài giờ lên lớp sẽ giúp các em được tiếp xúc với môi trưòng rộng lớn hơn, phong phú hơn. Từ đó, học sinh học hỏi được nhiều hơn, có kĩ năng giao tiếp bằng tiếng Việt tốt hơn, yêu thích đến trường hơn và từng bước giúp các em hoàn thiện nhân cách của mình. b.5.3. Phối hợp tốt giữa giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn Sự phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn có vai trò hết sức quan trọng trong công tác duy trì sĩ số học sinh, đặc biệt là tỉ lệ chuyên cần của học sinh trong các buổi học thứ hai. Vì vậy, bên cạnh việc giao trách nhiệm cho giáo viên chủ nhiệm, chúng tôi cũng gắn trách nhiệm cho giáo viên bộ môn trong công tác phối hợp vận động học sinh đi học đều, duy trì sĩ số học sinh. Học sinh thường vắng học vào buổi học thứ hai có thể vì do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên các em ở nhà phụ giúp gia đình tăng thêm thu nhập. Cũng có thể vì các em không thích môn học do giáo viên bộ môn dạy,…Vì vậy, giáo viên chủ nhiệm cần tìm hiểu nguyên nhân, phối hợp cùng giáo viên bộ môn đề ra các biện pháp thích hợp nhằm giúp các em có kết quả học tập tốt hơn ở các môn học, từ đó các em sẽ hứng thú học tập và đi học đều đặn. Hơn nữa, thông qua việc trao đổi với giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm sẽ nắm được
Bạn đang đọc nội dung bài viết Tăng Cường Tiếng Việt Cho Trẻ Em Dân Tộc Thiểu Số trên website Maytinhlongthanh.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!