Đề Xuất 5/2023 # Một Số Biện Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Sử Dụng Đồ Dùng Dạy Học Môn Tiếng Việt Lớp Hai # Top 7 Like | Maytinhlongthanh.com

Đề Xuất 5/2023 # Một Số Biện Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Sử Dụng Đồ Dùng Dạy Học Môn Tiếng Việt Lớp Hai # Top 7 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Một Số Biện Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Sử Dụng Đồ Dùng Dạy Học Môn Tiếng Việt Lớp Hai mới nhất trên website Maytinhlongthanh.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Đồ dùng dạy học với tư cách là công cụ lao động của giáo viên và học sinh được sử dụng đúng quy trình, phù hợp với đặc trưng bộ môn. Đồ dùng dạy học không những đóng vai trò minh họa cho lời giảng của giáo viên mà còn cung cấp nội dung thông tin học tập, tạo ra nhiều khả năng để giáo viên trình bày bài học một cách sâu sắc, thuận lợi, hình thành được ở học sinh những phương pháp học tập tích cực, chủ động, sáng tạo.

Nghị quyết 40/2000 – QH 10 của Quốc Hội nước ta về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đã nêu rõ : “Đối với nội dung chương trình sách giáo khoa, phương pháp phải được thực hiện đồng bộ với việc nâng cấp và đổi mới trang thiết bị dạy học”.

Sử dụng đồ dùng dạy học đã tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên đa dạng hoá các hình thức tổ chức dạy – học và hoạt động theo hướng tích cực hoá, cá thể hoá người học trong hoạt động học tập rèn luyện ; phát huy hết tài năng của mỗi giáo viên và tiềm năng của mỗi học sinh.

Đồ dùng dạy học đẩy mạnh được hoạt động nhận thức của học sinh. Giúp học sinh tự khám phá, chiếm lĩnh kiến thức, phát triển trí tuệ, giáo dục nhân cách, kích thích hứng thú nhận thức của học sinh, hợp lý hoá quá trình hoạt động của giáo viên và học sinh.

Với tầm quan trọng của ĐDDH và những thực trạng mà tôi đã nêu ra từ đồng nghiệp cũng chính là tồn tại của bản thân. Chính vì vậy, tôi đã suy nghĩ và tìm ra “một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng dạy học môn Tiếng Việt lớp Hai”.

Tên đề tài : MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG DẠY HỌC MÔN TIẾNG VIỆT LỚP HAI. A. ĐẶT VẤN ĐỀ : a) Tầm quan trọng của vấn đề : Đồ dùng dạy học với tư cách là công cụ lao động của giáo viên và học sinh được sử dụng đúng quy trình, phù hợp với đặc trưng bộ môn. Đồ dùng dạy học không những đóng vai trò minh họa cho lời giảng của giáo viên mà còn cung cấp nội dung thông tin học tập, tạo ra nhiều khả năng để giáo viên trình bày bài học một cách sâu sắc, thuận lợi, hình thành được ở học sinh những phương pháp học tập tích cực, chủ động, sáng tạo. Nghị quyết 40/2000 - QH 10 của Quốc Hội nước ta về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đã nêu rõ : "Đối với nội dung chương trình sách giáo khoa, phương pháp phải được thực hiện đồng bộ với việc nâng cấp và đổi mới trang thiết bị dạy học". Sử dụng đồ dùng dạy học đã tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên đa dạng hoá các hình thức tổ chức dạy - học và hoạt động theo hướng tích cực hoá, cá thể hoá người học trong hoạt động học tập rèn luyện ; phát huy hết tài năng của mỗi giáo viên và tiềm năng của mỗi học sinh. Đồ dùng dạy học đẩy mạnh được hoạt động nhận thức của học sinh. Giúp học sinh tự khám phá, chiếm lĩnh kiến thức, phát triển trí tuệ, giáo dục nhân cách, kích thích hứng thú nhận thức của học sinh, hợp lý hoá quá trình hoạt động của giáo viên và học sinh. Với tầm quan trọng của ĐDDH và những thực trạng mà tôi đã nêu ra từ đồng nghiệp cũng chính là tồn tại của bản thân. Chính vì vậy, tôi đã suy nghĩ và tìm ra "một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng dạy học môn Tiếng Việt lớp Hai". b) Giới hạn và phạm vi nghiên cứu : * Đối tượng nghiên cứu : Học sinh lớp 2B. Trường Tiểu học số 1 Duy Vinh * Phạm vi nghiên cứu : Chương trình môn Tiếng Việt lớp 2 ở các phân môn : Tập đọc - Chính tả - Kể chuyện - Tập viết. c) Thực trạng trước khi áp dụng đề tài : Qua những năm thực hiện chương trình thay sách giáo khoa, tôi nhận thấy rằng việc sử dụng đồ dùng dạy học ở giáo viên và học sinh còn nhiều hạn chế. Về phần giáo viên qua dự giờ, thao giảng việc sử dụng đồ dùng dạy học còn một số tồn tại như sau : - Việc hướng dẫn học sinh sử dụng đồ dùng dạy học chưa đúng mục đích, chưa bám sát mục đích đã định của bài học, sử dụng chưa đúng lúc làm phân tán sự tập trung chú ý của học sinh, ảnh hưởng tới quá trình tiếp thu của các em. - Sử dụng đồ dùng dạy học chưa đúng chỗ, xác định vị trí của đồ dùng, trình bày ở nơi chưa hợp lí để mọi học sinh trong lớp quan sát được. - Sử dụng chưa đúng mức độ, chưa phù hợp mục đích, yêu cầu bài học, chưa đúng đặc trưng bộ môn Tiếng Việt, chưa phù hợp với trình độ tiếp thu của học sinh. Về phía học sinh, nhược điểm của các em quan sát không có chủ định. Nhìn vào bức tranh, ảnh các em thường không tập trung chú ý vào những nhân vật, sự vật chủ yếu thể hiện nội dung cơ bản của bài học, mà lại chú ý những đối tượng mà mình ưa thích, dù đấy chỉ là những đối tượng thứ yếu. B. CƠ SỞ LÝ LUẬN : Sử dụng ĐDDH trong dạy - học Tiếng Việt nhằm mục đích giúp cho giờ dạy đạt hiệu quả cao hơn. Hoạt động học sinh tham gia quá trình sử dụng ĐDDH, điều chủ yếu là bồi dưỡng cho các em phương pháp suy nghĩ, diễn tả, nghiên cứu phương pháp, giải quyết vấn đề. Để phát huy hết tác dụng của ĐDDH, điều quan trọng nhất là phải xác định đúng các tình huống sư phạm, phù hợp với đặc trưng bộ môn, trong từng tiết học cụ thể. Tình huống sư phạm sẽ quy định thời điểm, phương pháp và mức độ khai thác nội dung các ĐDDH trong quá trình lên lớp. Hoạt động nhận thức của học sinh từ chưa biết đến hiểu biết, đến kĩ năng, kĩ xảo và vận dụng vào thực tiễn. Lê-Nin đã từng khẳng định con đường biện chứng của nhận thức là : "Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Đó là con đường biện chứng của dẫn chứng chân lí, nhận thức hiện thực khách quan". Sử dụng ĐDDH trong quá trình dạy học là con đường kết hợp chặt chẽ giữa cái cụ thể và cái trừu tượng, bằng hành động vật chất, bằng ngôn ngữ bên ngoài tác động vào cảm giác để chuyển thành ngôn ngữ bên trong phù hợp với đặc điểm của học sinh Tiểu học đặc biệt là học sinh lớp 2. Trên cơ sở đó, hình thành các khái niệm, định luật, luận thuyết khoa học. C. CƠ SỞ THỰC TIỄN : Trong những năm học này, toàn ngành hưởng ứng cuộc vận động "Hai không" với 5 nội dung mới trong đó có nội dung "Nói không với đọc - chép trong dạy học" nội dung này phù hợp với phương pháp "lấy học sinh làm trung tâm". Đây là nội dung thiết yếu nhằm đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực trong học tập của học sinh, giúp học sinh tự khám phá, chiếm lĩnh kiến thức, phát triển trí tuệ, giáo dục nhân cách con người Viêt Nam XHCN, kích thích sự hứng thú nhận thức của học sinh. Với tầm quan trọng như thế, nhưng trong thực tiễn giảng dạy hiện nay vẫn còn một số giáo viên chưa nắm được nguyên tắc sử dụng, chưa coi trọng việc sử dụng ĐDDH, trong dự giờ đồng nghiệp vẫn còn tồn tại : sử dụng ĐDDH chưa hiệu quả, chưa phát huy tác dụng, chưa khoa học ... Để nhận thức rõ tầm quan trọng của việc sử dụng ĐDDH, thực hiện nghiêm túc việc "Không đọc chép trong dạy - học" và khắc phục những tình trạng nêu trên, tôi đã suy nghĩ và tìm ra : "Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng ĐDDH môn Tiếng Việt lớp Hai". D. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU : Để nâng cao hiệu quả sử dụng ĐDDH, tôi đã thực hiện một số biện pháp trong từng phân môn ở môn Tiếng Việt, đảm bảo theo các nguyên tắc cơ bản : + Sử dụng đúng mục đích. + Sử dụng đúng lúc. + Sử dụng đúng chỗ. + Sử dụng đúng mức độ. Cụ thể là : a) Biện pháp 1 : Sử dụng tranh ảnh, mẫu vật trong phân môn tập đọc : * Thời gian thực hiện : * Biện pháp thực hiện : Trong phân môn tập đọc, sử dụng ĐDDH chủ yếu nhằm mục đích giúp cho học sinh hiểu và cảm thụ nội dung thơ văn tốt hơn. Việc sử dụng ĐDDH trong phân môn tập đọc rất cần thiết, song tôi luôn căn cứ vào nội dung từng bài đọc cụ thể mà lựa chọn những đồ dùng dạy học cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu cần và đủ, giúp cho bài giảng đạt được mục đích đã định. + Ví dụ 1 : Bài : Câu chuyện bó đũa. - Vật mẫu : 1 bó đũa. Đây là câu chuyện khuyên anh em trong nhà phải đoàn kết, thương yêu nhau, đoàn kết sẽ tạo nên sức mạnh. Với bài này, tôi đã hướng dẫn học sinh quan sát tranh, tìm hiểu nội dung tranh vẽ những gì ? Sau 2 phút quan sát tranh, học sinh trả lời tranh vẽ : Một người bố cầm trong tay bó đũa và bốn người con đang đứng xung quanh người bố, nghe bố nói điều gì. GV vào bài : Để xem người bố khuyên các con điều gì, cô cùng các em tìm hiểu nội dung bài : Câu chuyện bó đũa. Trong quá trình tìm hiểu bài, tôi vẫn sử dụng bức tranh ấy để hướng dẫn các em khai thác nội dung. Ví dụ : Câu1 : Câu chuyện này có những nhân vật nào ? Học sinh nhìn vào tranh và nói được ngay có 5 nhân vật : ông cụ và 4 người con. Đến đoạn tìm hiểu : Một chiếc đũa được ngầm so sánh gì ? Bó đũa được ngầm so sánh gì ? Để giúp các em cảm nhận được một chiếc đũa được ngầm so sánh với từng người con, với sự chia rẽ, với sự mất đoàn kết. Tôi đã sử dụng mẫu vật bó đũa, tháo bó đũa tách ra từng chiếc đũa để các em thấy rõ sự chia rẽ, sự mất đoàn kết. Tôi gộp bó đũa lại được ngầm so sánh với 4 người con, với sự thương yêu đùm bọc lẫn nhau, với sự đoàn kết. Tôi kết hợp giảng từ "đoàn kết" là yêu thương, đùm bọc nhau, chung sức lại để làm việc. + Ví dụ 2 : Sông Hương. + Mẫu vật : Hoa phượng vĩ. Ví dụ : Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu : Vào mùa hè, Sông Hương đổi màu như thế nào ? (Học sinh đọc thầm đoạn 2 trong bài để trả lời) : Vào mùa hè : Sông Hương thay chiếc áo xanh hằng ngày thành dải lụa đào ửng hồng cả phố phường. Sau khi học sinh trả lời xong tôi lại đặt vấn đề cho các em suy nghĩ : Do đâu có sự thay đổi ấy ? Tôi lại treo tranh, gợi mở chỉ trên hình ảnh cho các em nhận rõ những cây phượng vĩ nở đỏ rực hai bên bờ. Từ đó các em suy nghĩ trả lời : Do hoa phượng vĩ nở đỏ rực hai bên bờ in bóng xuống dòng nước. Kết hợp cho học sinh quan sát vật mẫu "hoa phượng vĩ" để giảng từ "đỏ rực". Biện pháp 2 : Sử dụng đồ dùng dạy - học trong phân môn Kể chuyện : Phân môn kể chuyện có nhiệm vụ rèn luyện trí nhớ cho học sinh. Có ghi nhớ nội dung các em mới kể chuyện lưu loát, trôi chảy, diễn cảm. Ở lớp Hai, điểm khác biệt về nội dung phân môn kể chuyện là sự gắn bó chặt chẽ với phân môn tập đọc. Nội dung cả 31 tiết kể chuyện đều là kể lại những câu chuyện các em đã học trong các bài tập đọc 2 tiết mở đầu mỗi tuần, nhờ thế các em kể lại chuyện một cách tự tin. Khi hướng dẫn học sinh sử dụng bảng con tôi lưu ý : Học sinh luyện viết chữ trên mặt bảng con có dòng kẻ ô li. Ngồi viết đúng tư thế ; biết cách cầm phấn và trình bày chữ viết trên dòng kẻ ở bảng con đúng, đủ yêu cầu. Học sinh có thói quen giơ bảng, hạ bảng, xoá bảng bảo đảm yêu cầu, hợp vệ sinh. c. Vở Tập viết : Vở tập viết lớp 2 do Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành là phương tiện luyện tập thực hành quan trọng của học sinh. Nội dung mỗi bài tập viết được thiết kế trên 2 trang vở có chữ viết mẫu trên dòng kẻ li, cấu trúc như sau : (Trang lẻ) : - Tập viết ở lớp ( kí hiệu l ), bao gồm các yêu cầu tập viết như sau : + 1 dòng chữ cái viết hoa cỡ vừa ; + 2 dòng chữ cái viết hoa cỡ nhỏ ; + 1 dòng viết ứng dụng (chữ ghi tiếng có chữ cái viết hoa) cỡ vừa ; + 1 dòng viết ứng dụng (chữ ghi tiếng có chữ cái viết hoa) cỡ nhỏ ; + 3 dòng viết ứng dụng (cụm từ có chữ viết hoa) cỡ nhỏ. - Tập viết nghiêng (tự chọn) - kí hiệu ". (Tranh chẵn) : - Luyện viết ở nhà (kí hiệu n ) - Tập viết nghiêng (tự chọn - kí hiệu ") Sau chữ viết mẫu, trên mỗi dòng kẻ đều có điểm đặt bút (dấu chấm) tôi cho các em xác định rõ đó là điểm đặt bút bắt đầu viết một chữ cái, giúp các em biết viết đúng khoảng cách giữa các chữ. Trước khi bắt đầu luyện tập viết bài vào vở ở mỗi dòng tôi cho các em tô lại chữ mẫu nhằm giúp các em xác định đúng điểm đặt bút, điểm dừng bút, viết đúng quy trình viết chữ. - Tôi nhắc các em nắm vững yêu cầu tập viết (viết chữ gì, viết bao nhiêu dòng, mỗi chữ viêt cách nhau một con chữ "o"). - Tôi yêu cầu các em nhớ lại hình dạng, quy trình viết chữ đã học và luyện tập trên bảng con, dựa vào điểm đặt bút ở dòng kẻ trên trang vở để viết cho đúng mẫu, rõ ràng, sạch sẽ. Không viết dở dang 1, 2 chữ trong cụm từ ứng dụng trên dòng kẻ. Biện pháp 4 : Sử dụng đồ dùng dạy học trong phân môn Chính tả : Phân môn chính tả nhằm rèn luyện kĩ năng viết, kĩ năng nghe cho học sinh. Kết hợp luyện tập chính tả với việc rèn cách phát âm, củng cố nghĩa của từ, trau dồi về ngữ pháp tiếngViệt, góp phần phát triển một số thao tác tư duy (nhận xét, so sánh, liên tưởng, ghi nhớ ...). Bồi dưỡng một số đức tính, thái độ, tác phong cần thiết trong công việc như tính cẩn thận, tác phong làm việc chính xác, óc thẩm mĩ ... Đồ dùng trong phân môn chính tả gồm có : Bảng phụ, bảng con, tranh ảnh, mẫu vật, ... Biện pháp thực hiện : Bảng phụ : + Tôi dùng bảng phụ để viết các bài tập chép, các bài tập chính tả cần luyện tập trong tiết học, khi lên lớp, tôi không phải viết trên bảng nhóm, giành thêm được thời gian gợi mở, hướng dẫn học sinh làm bài tập, uốn nắn những sai sót, giúp cho việc tiến hành giờ học thuận lợi hiệu quả. + Tôi dùng bảng phụ tổ chức cho các nhóm học sinh thi làm đúng, làm nhanh các bài tập trước lớp. Trong quá trình các nhóm thực hiện có thể bộc lộ những thiếu sót, đó là dịp thuận lợi để tôi phát hiện, nhận xét, uốn nắn kịp thời những sai sót đó. b. Bảng con : + Tôi cho học sinh sử dụng bảng con để luyện tập viết từ khó trước khi viết bài vào vở. Bên cạnh đó, học sinh dùng để điền âm, vần, dấu thanh ,viết từ chứa tiếng có vần đã cho trong các bài tập chính tả. c. Tranh ảnh, mẫu vật : + Hệ thống từ ngữ để học sinh luyện viết chính tả khá phong phú, đa dạng nhằm cung cấp, củng cố, mở rộng vốn từ cho học sinh. Để giúp các em hiểu và viết đúng một số từ ngữ đề cập đến những sự vật, sự việc, hiện tượng xa lạ với vốn sống, vốn hiểu biết, vốn từ ngữ của các em. Đặc biệt đối với những bài các em chưa học tập đọc, tôi đã sử dụng các loại tranh ảnh mẫu vật sau : Ví dụ 1 : Bài Trâu ơi ! Trong đoạn viết có từ "Cấy cày" học sinh hay viết sai là cái cầy, do các em chưa hiểu được nghĩa của từ. Để giúp các em hiểu được nghĩa của từ "Cấy cày" tôi sưu tầm tranh vẽ nghề nông, chúng tôi chỉ hình ảnh cô gái và giảng giải : Đây là hình ảnh cô gái đang cấy lúa trên ruộng. Tay trái cầm một nắm mạ chưa cấy, tay phải cầm một nắm mạ đang cấy xuống ruộng. Cô cấy lúa rất thẳng hàng (chỉ hàng mạ đang cấy). Sau đó tôi cho học sinh quan sát tiếp hình ảnh con trâu đang cày ruộng. Nhờ hình ảnh "cấy lúa", "cày ruộng" học sinh viết đúng từ "Cấy cày". Ví dụ 2 : Con chó nhà hàng xóm. Trong đoạn viết có từ "Cún Bông" chúng tôi cho học sinh xem mẫu vật con Cún Bông (đồ chơi của trẻ em được làm bằng bông) để các em quan sát, tạo được sự hứng thú trong học tập,khắc sâu vốn từ cho học sinh. Biện pháp 5 : Tự làm thêm một số đồ dùng dạy học trong môn Tiếng Việt : Ngoài những đồ dùng dạy học sẵn có, tôi còn tự làm thêm một số đồ dùng có chất lượng nhằm phục vụ giảng dạy môn Tiếng việt đạt hiệu quả cao hơn. + Thẻ từ : . Vật liệu : bảng con cắt đôi, nam châm nhỏ. . Cách sử dụng : Dùng để viết sẵn các từ khó cần luyện đọc cho học sinh trong các tiết tập đọc. Ngoài ra, dùng để hướng dẫn học sinh sắp xếp các từ ở mỗi nhóm thành câu thích hợp và dùng để chơi trò chơi gắn từ thích hợp với hình vẽ tương ứng. Ví dụ : Trong phân môn tập đọc, khi dạy bài : Sông Hương, tôi nghiên cứu chọn ra một số từ khó để rèn đọc cho học sinh yếu như : sắc độ, thảm cỏ, trăng sáng, dát vàng, đặc ân, ... tôi viết những từ đó vào thẻ từ. Khi dạy phần luyện đọc từ khó chúng tôi gắn thẻ từ lên bảng lớp để cả lớp cùng quan sát, gọi học sinh yếu lên đánh vần - đọc trơn từ cần rèn. Trong phân môn Luyện Từ và Câu : Nhằm giúp các em có kĩ năng tạo câu với từ cho sẵn, tôi ghi sẵn các từ vào thẻ từ và sắp xếp như sau : thật tươi Cô dạy tập viết Chúng em học bài Cô mĩm cười Các em dùng thước nối các cụm từ ở bên trái với cụm từ ở bên phải. Chú ý làm sao để các cụm từ có cùng chung nét nghĩa thì câu tạo thành mới có nghĩa. Hiệu quả sử dụng : Giảm được thời gian viết từ khó trong khi luyện đọc. Kích thích được sự hứng thú nhận thức trong học tập. Hợp lí hoá trong quá trình hoạt động dạy - học. + Thẻ A, B, C : Vật liệu : giấy trắng in chữ A, B, C dán vào ống hút. Mỗi em có ba thẻ A, B và C. Cách sử dụng : Dùng để làm các bài tập thực hành trắc nghiệm trong phân môn Tập đọc, ngoài ra còn sử dụng ở các môn Toán, Đạo Đức, Tự nhiên và Xã Hội. Các em sẽ chọn ý đúng và giơ lên theo quy định của giáo viên. VD : Thường bài tập trắc nghiêm có ba ý (a, b, c) nếu chọn ý a, các em giơ thẻ A, nếu chọn ý b, các em giơ thẻ B, chọn ý c, giơ thẻ C. . Hiệu quả sử dụng : Kích thích được sự hứng thú trong học tập, tích cực hoá hoạt động học tập của các em. E. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC : Sau khi nghiên cứu,thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng dạy học trong các phân môn Tập đọc, Kể chuyện, Tập viết, Chính tả. Kết quả đạt được như sau : + Về phía giáo viên : Trong quá trình nghiên cứu bài dạy, tôi đã nghiên cứu kĩ phần chuẩn bị đồ dùng dạy học cho từng bài khai thác hết các khía cạnh tích cực của nó, tận dụng hết các chức năng để trình bày, giảng giải, khai thác kiến thức, đồng thời tôi hướng dẫn học sinh quan sát, nghiên cứu khám phá để truyền thụ tốt nhất nội dung bài học. Tôi đã sử dụng đồ dùng dạy học đúng vào thời điểm cần thiết để khai thác truyền thụ một cách hợp lý, giúp học sinh quan sát, tiếp nhận nội dung một cách thuận lợi. Mỗi bước lên lớp khi đồ dùng đã được sử dụng xong chúng tôi cất đi trước khi sử dụng đồ dùng dạy học khác. Tôi luôn xác định đúng vị trí trình bày ở một nơi hợp lý nhất trên lớp, phù hợp với góc nhìn, đảm bảo đủ ánh sáng để học sinh ngồi ở mọi vị trí trong lớp đều có thể quan sát dễ dàng. Mỗi đồ dùng dạy học chứa nhiều nội dung kiến thức khác nhau. Có những kiến thức giới hạn thống nhất với nội dung được trình bày trong sách giáo khoa, song cũng có những kiến thức bổ sung, mở rộng làm rõ thêm một số chi tiết, giúp cho học sinh hiểu một cách đầy đủ hơn. Vì vậy khi sử dụng tôi khai thác đúng mức độ, phù hợp với mục đích, yêu cầu bài học, đúng đặc trưng phân môn, phù hợp với trình độ tiếp thu của học sinh. Qua các tiết dự giờ của ban giám hiệu nhà trường, của đồng nghiệp, tôi được nhà trường cùng đồng nghiệp đánh giá cao về việc sử dụng đồ dùng dạy học, sử dụng có hiệu quả, phát huy được tác dụng, đảm bảo tính khoa học, tính giáo dục cao. Kết quả : Các em biết quan sát đồ dùng một cách có tổ chức, có kế hoạch, có suy nghĩ, biết tư duy một cách độc lập, linh hoạt, sáng tạo, biết ghi nhớ một cách hợp lí, khoa học, biết tưởng tượng một cách chính xác, đúng hướng. Trí tuệ các em được phát triển, đã hình thành ở các em thói quen độc lập suy nghĩ, nhìn nhận, phê phán, thói quen nhận thức vấn đề một cách có căn cứ khoa học. Trong giờ học Tiếng Việt các em rất hứng thú, hồ hởi khi được sử dụng đồ dùng dạy. Kết quả chất lượng môn Tiếng Việt của lớp như sau : LỚP TSHS Thời Điểm GIỎI KHÁ T BÌNH YẾU T BÌNH á SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL 2B 33/20 GKI 11 33,3 15 45,4 05 12,5 02 6,1 31 93,9 GKII 14 42,4 13 39,4 05 12,5 01 3.0 32 97.0 Hội thi vở sạch chữ đẹp đạt giải nhất đồng đội. G. KẾT LUẬN : Đồ dùng dạy học là yếu tố không thể thiếu trong quá trình dạy học. Trong quá trình dạy học, học sinh nhận thức nội dung bài học dưới sự tổ chức, dẫn dắt của giáo viên, có sự hỗ trợ của các đồ dùng dạy học. Đồ dùng dạy học đảm bảo cho học sinh lĩnh hội tốt nhất các biểu tượng, khái niệm, quy tắc, hình thành kĩ năng, kĩ xão. Đối với học sinh tiểu học, đồ dùng dạy học đặc biệt quan trọng vì nó giúp các em quan sát sự vật, hiện tượng một cách trực quan, giúp học sinh nhận thức sâu hơn nội dung bài học, hình thành tốt kĩ năng, kĩ xão. Như Lê Nin đã từng khẳng định con đường biện chứng của nhận thức là : "Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan". Tác giả Lê Thị Bích Phương H. TÀI LIỆU THAM KHẢO : 1. Nội dung sách giáo khoa, sách giáo viên ở các phân môn Tập đọc - Chính tả - Kể chuyện - Tập viết. Nhà xuất bản Giáo dục. 2. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên Giáo viên tiểu học Chu kỳ III 2003- 2007 (tập một). Nhà xuất bản Giáo dục. 3. Chuyên để Hỏi - Đáp về dạy học Tiếng việt 2 của Nguyễn Minh Thuyết - Nhà xuất bản Giáo dục. 4. Chuyên đề : ''Đổi mới phương pháp dạy - học'' của bộ phận tiểu học (Phòng Giáo dục& Đào tạo Duy Xuyên).

Sử Dụng Đồ Dùng Dạy Học Môn Khoa Học Lớp 4

chất lượng dạy học không thể không quan tâm tới đổi mới cách sử dụng thiết bị, đồ dùng dạy học. Đối với việc giảng dạy môn Khoa học ở tiểu học, thiết bị, đồ dùng dạy học lại càng đặc biệt quan trọng bởi phương pháp dạy học đặc trưng của môn học là quan sát và thí nghiệm. Những kiến thức, kĩ năng, phương pháp học tập môn Khoa học là cơ sở để học tiếp các môn Sinh học, Vật lý, Hóa học…ở bậc học cao hơn. Vì vậy có thể nói Thiết bị, đồ dùng dạy học là yếu tố không thể thiếu trong mỗi tiết học Để tạo điều kiện cho học sinh được phát triển kĩ năng học tập khoa học, phát huy tính tích cực, chủ động tìm tòi, phát hiện kiến thức, bản thân tôi cũng đã nghiên cứu tìm phương pháp để có thể sử dụng đồ dùng dạy học một cách hiệu quả nhất. Vì thế, tôi xin trình bày một số biện pháp nâng cao chất lượng “Sử dụng đồ dùng dạy học môn Khoa học lớp 4”. II.Thực trạng việc sử dụng đồ dùng dạy học trong môn Khoa học: 1.Thực trạng: – Những năm gần đây giáo viên Tiểu học cũng đã quan tâm sử dụng thiết bị đồ dùng dạy học song phần lớn chỉ coi đó là phương tiện minh họa thay cho lời giảng của giáo viên chứ ít được sử dụng làm phương tiện để tổ chức các hoạt động học tập của từng cá nhân hoặc từng nhóm học sinh. – Trong quá trình sử dụng giáo viên đã gặp không ít những khó khăn vì chưa nắm vững những nguyên tắc sử dụng thiết bị, đồ dùng sao cho hợp lý, có hiệu quả. Phần lớn là sự tự mày mò, học hỏi lẫn nhau, chưa được bồi dưỡng một cách cơ bản, có hệ thống nên còn nhiều lúng túng. – Bộ đồ dùng dạy học được trang bị đáp ứng được xu thế đổi mới phương pháp dạy học. Mỗi lớp chỉ được cung cấp một bộ, chỉ đủ để giáo viên làm mẫu, ít có điều kiện để các nhóm học sinh được thực hành. 2

– Ngoài ra, không gian lớp học còn chật hẹp, tủ đựng đồ dùng chưa đồng bộ nên việc sắp xếp, bảo quản còn nhiều bất tiện. 2.Kết quả,hiệu quả của thực trạng : – Giáo viên còn lúng túng khi sử dụng các đồ dùng làm thí nghiệm khoa học – Việc sử dụng đồ dùng trong mỗi tiết Khoa học chủ yếu là giáo viên thao tác minh họa, học sinh quan sát nghe cô giảng giải. – Một số đồ dùng cấp phát đã bị hỏng sau một vài lần sử dụng. – Học sinh ít được làm thí nghiệm khoa học. B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I.Các giải pháp thực hiện: 1. Đối với công tác quản lý: – Sắp xếp bố trí đội ngũ giáo viên có trình độ đào tạo đạt chuẩn và trên chuẩn, trình độ tay nghề vững vàng, có sức khoẻ, tâm huyết với nghề giảng dạy khối 4. – Tạo thuận lợi để giáo viên có điều kiện chuẩn bị đồ dùng, làm thử các thí nghiệm khoa học. – Trường tổ chức tập huấn hướng dẫn sử dụng, khai thác triệt để các đồ dùng bộ môn khoa học, đồng thời, phát động giáo viên, học sinh tự sưu tầm, tự làm đồ dùng dạy học bổ sung. – Trường tổ chức thi sử dụng đồ dùng dạy học; Thi đồ dùng dạy học tự làm. 2. Đối với giáo viên: – Phải xác định được mục tiêu phân môn Khoa học lớp 4, cần đạt theo chuẩn kiến thức kỹ năng.

3

5

Để chủ động trong việc sử dụng đồ dùng dạy học, mỗi giáo viên và tổ chuyên môn cần lập kế hoạch cụ thể những đồ dùng cần thiết trong từng bài và sắp xếp chúng hợp lí để tiện sử dụng.

Bài

Tên Bài

Đồ Dùng -Phiếu học tập (SGV)

Ghi Chú -GV chuẩn bị

Con người cần gì để – 4 bộ phiếu vẽ (hoặc ghi) những sống?

thứ cần thiết khác để duy trì cuộc sống.

– HS chuẩn

-Giấy khổ lớn. bị theo nhóm ……….. ….. -2 tháp dinh dưỡng cân đối (tranh – GV chuẩn bị

Tại sao cần ăn phối câm) hợp

nhiều

thức ăn?

loại – Các tấm thẻ cài ghi tên hay hình vẽ hoặc tranh ảnh các loại thức ăn. -Các tấm bìa hình tròn để ghi tên các – HS chuẩn bị món ăn.

…….

theo nhóm

-Giấy khổ lớn (bìa lịch) để làm “mâm” ……………. ……. – 3 cốc thủy tinh giống nhau,thìa – HS chuẩn – Chai,bình,cốc đựng nước có hìn bị theo nhóm

Nước có những tính dạng khác nhau chất

gì? – 1tấm kính và 1khay đựng nước – 1tấm vải (khăn tay)bông, giấy thấm. – Một ít muối ,đường, cát…

– GV chuẩn bị

– Nước lọc, nước chè, sữa.. …

– Phiếu học tập …

Từ kế hoạch trên, có thể chủ động hơn trong việc phân công HS chuẩn bị sưu tầm; Giáo viên phối hợp với đồng nghiệp dạy cùng khối lớp để tự làm một số đồ dùng đơn giản như: Mô hình lọc nước đơn giản; Sơ đồ vòng tuần hoàn của nước trong tự nhiên; ….. Giáo viên hướng dẫn HS trong nhóm phân chia nhau hoặc cùng nhau chuẩn bị đồ dùng cô giáo giao, ví dụ như: cùng vẽ tranh hoặc sưu tầm ảnh về các loại quả, rau, gà, vịt, cá, trứng sữa,… phục vụ cho trò chơi ở hoạt động 3 – bài 7: Tại sao cần ăn phối hợp nhiều loại thức ăn? Hoặc taát caû ñoà duøng chuaån bò töø tieát tröôùc ñeå laøm thí nghieäm veà: nöôùc, khoâng khí, aâm thanh, aùnh saùng, nhieät nhö: coác, tuùi niloâng, xi lanh, ñeøn, nhieät keá… phục vụ cho bài ôn tập( tuần 28): Vật chất và năng lượng. 2,Sử dụng đồ dùng dạy học trong từng bài cụ thể. 2.1. Sử dụng đồ dùng là tranh, ảnh, sơ đồ… Trong nội dung chương trình môn Khoa học đồ dùng là tranh ảnh, sơ đồ…không chỉ làm nhiệm vụ minh họa mà còn là nguồn cung cấp thông tin để học sinh tìm ra kiến thức mới. Vì vậy khai thác tranh ảnh có hiệu quả sẽ giúp học sinh hiểu sâu và nhớ lâu những kiến thức trong mỗi bài học. Sách giáo môn Khoa học lớp 4, số lượng tranh ảnh đã được tăng cường, màu sắc đẹp, hấp dẫn và có tính điển hình. Vì vậy tập trung khai thác kĩ những hình ảnh sách giáo khoa là có thể đạt được phần lớn mục tiêu của giờ học. Tuy nhiên do khổ sách có hạn nên một số tranh ảnh còn nhỏ, chỉ đủ để HS là việc cá nhân hoặc nhóm nhỏ chứ không thể dùng trình bày trước cả lớp, do đó cũng cần phải phóng to, tách riêng một số hình ảnh. Ví dụ1: Bài 27 Một số cách làm sạch nước Hoạt động 3:Tìm hiểu quy trình sản xuất nước sạch

7

Để giúp HS nắm được quy trình sản xuất nước sạch của nhà máy nước đảm bảo 3 tiêu chuẩn: Khử sắt, loại bỏ các chất không tan và sát trùng, thì Hình 2 SGK chỉ có tác dụng khi em hoạt động nhóm 4. Muốn giải thích hoặc tổ chức cho HS trình bày trước lớp một cách cụ thể về tác dụng của từng công đoạn trong dây chuyền sản xuất nước sạch cần phải phóng to hình 2. Ví dụ 2: Bài 15 : Bạn cảm thấy thế nào khi bị bệnh? Hoạt động 1:Quan sát hình và kể chuyện. 9 Hình trong SGK cần được tách rời, phóng to để HS sắp xếp thành 3 câu chuyện sức khỏe của Hùng. Từ đó HS có thể vừa chỉ vào tranh vừa trình bày trước lớp một cách sinh động, cụ thể về nguyên nhân dẫn đến việc mắc bệnh của Hùng và những việc cần làm khi cơ thể bị bệnh. Bên cạnh việc sử dụng tranh ảnh thì sơ đồ, phiếu học tập…cũng được sử dụng rất nhiều trong môn Khoa học. Thường thì GV vẽ sơ đồ trên bảng phụ hoặc khổ giấy lớn; Một số phiếu học tập được phóng to để phục vụ khi dạy cả lớp hoặc để các nhóm đối chiếu kết quả làm việc và giáo viên sử dụng để chốt lại ý cơ bản cần thiết. Nhiều giờ thao giảng, sơ đồ, phiếu học tập được phóng to, in màu rất đẹp nhưng lại chỉ sử dụng được một lần vì giáo viên yêu cầu HS viết, vẽ ngay vào đó. Như vậy rất tốn kém và lãng phí thời gian chuẩn bị. Vì thế tôi đã suy nghĩ để thiết kế những sơ đồ, phiếu học tập có thể sử dụng được nhiều lần. Ví dụ 3 : Bài 21 Ba thể của nước Hoạt động 3: Vẽ sơ đồ sự chuyển thể của nước. Nếu chỉ yêu cầu học sinh vẽ sơ đồ và trình bày sự chuyển thể của nước thì các em sẽ sao chép y nguyên hình vẽ SGK chuyển thành sơ đồ và trình bày theo kiểu học thuộc lòng. Chỉ cần “xoay” sơ đồ kiểu khác như đề kiểm tra cuối kì I năm 2007-2008 là đã có tới 40% HS nhầm lẫn vì không hiểu 8

bản chất, Vì vậy để học sinh nắm vững về sự chuyển thể của nước và điều kiện nhiệt độ của sự chuyển thể đó tôi đã thiết kế 2 kiểu sơ đồ sau: SƠ ĐỒ 1:Yêu cầu HS gắn các tấm thẻ có ghi :

đông đặc

;

ngưng tụ

đồ cho phù hợp :

; Bay hơi

nóng chảy

;

vào các ô trống trong sơ

Sơ đồ 1 Nước ở thể lỏng

Nước ở thể rắn

Hơi nước

Nước ở thể lỏng + SƠ ĐỒ 2: Y/c HS gắn các hình sau vào trong sơ đồ cho phù hợp:

,

,

Ngưng tụ

Sơ đồ 2

Nóng chảy

Kết quả gắn các hình vào sơ đồ như sau:

Bay hơi

Nóng chảy

Ngưng tụ

Đông đặc

Sau khi hoàn thiện sơ đồ HS sẽ dựa vào đó để trình bày sự chuyển thể của nước trong điều kiện nhiệt độ của sự chuyển thể đó.

10

Các tấm thẻ trên đều được ép Platic và gắn nam châm sau để có thể gắn vào và tháo ra 1 cách dễ dàng. Tương tự như vậy,tôi cũng làm các tấm thẻ ghi Đ-S ( đúng- sai); NK( nên – không nên) ; 1-2-3-4 ; X… Để tháo gắn vào các ô trống trước ý đúng; các lời khuyên về sử dụng dinh dưỡng hợp lý; các việc nên hay không nên làm; Trình tự các sự việc…. Ví dụ : Bài 42 Sự lan truyền của âm thanh * Hoạt động 1: Tìm hiểu sự lan truyền của âm thanh Để kiểm tra sự nắm vững cơ chế truyền âm thanh của HS, tôi đã yêu cầu HS thực hiện phiếu học tập sau: Khi gõ trống tai ta nghe thấy tiếng trống. Hãy điền số vào

trước

các sự kiện xảy ra theo thứ tự từ 1 đến 4 cho phù hợp : Không khí xung quanh mặt trống rung động. Mặt trống rung Màng nhĩ rung và tai ta nghe thấy tiếng trống. Không khí gần tai ta rung động * Dựa vào phiếu trên HS sẽ dễ dàng giải thích được âm thanh truyền tới ta ta như thế nào. Với những tấm thẻ như thế tôi không những sử dụng được nhiều lần ở nhiều bài trong môn Khoa học mà có thể sử dụng rất tiện lợi ở các môn như Đạo đức, Lịch sử, Địa lí…. Đối với các dạng bài tập nối ô chữ tôi cũng đã thay đổi để sử dụng được nhiều lần. Ví dụ: Bài 50 Nóng, Lạnh, Nhiệt độ Hãy gắn các phiếu ghi 1000C, 00C, 390C, 250C, 370C vào

cho

phù hợp: Người khỏe mạnh (bình thường) 11

Người bị sốt Nhiệt độ trong phòng một ngày trời mát mẻ Nước đang sôi Nước đá đang tan Chỉ cần hai bộ như trên có thể tổ chức tốt các trò chơi học tập nhằm giúp HS ghi nhớ được một số nhiệt độ tiêu biểu không chỉ ở một lớp mà có thể sử dụng cho cả khối và còn dùng được nhiều năm. 2.2.Sử dụng đồ dùng là vật thật: Trong môn Khoa học lớp 4 có một số bài là cần sử dụng đồ dùng dạy học là vật thật. Nếu tổ chức cho HS được thực hành trên vật thật chắc chắn các em sẽ có được những kĩ năng cần thiết ứng dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống. Tuy nhiên khi thực hành với vật thật theo đúng yêu cầu của nội dung bài học cần phải hướng dẫn các em rất tỉ mỉ, cẩn thận, nếu không kiến thức rút ra từ thực hành sẽ không thuyết phục. Ví dụ1: Bài 10,11 Sử dụng thưc phẩm sạch và an toàn – Một số cách bảo quản thức ăn Các nhóm HS cần phải chuẩn bị một số loại rau quả còn tươi, lành lặn và cả loại héo úa; Một số đồ hộp, thực phẩm đóng gói còn hạn sử dụng, bao bì đảm bảo quy cách và một số lạo bị han rỉ, méo mó…để các em có điều kiện so sánh để từ đó nhận biết được thức ăn tươi sạch đảm bảo an toàn thực phẩm. Đồng thời biết cách bảo quản và sử dụng thực phẩm đã bảo quản cho hợp vệ sinh. Ví dụ 2: Bài 16 Ăn uống khi bị bệnh

12

Nếu không được thực hành pha dung dịch Ô-rê-dôn chắc chắn các em sẽ khó nhớ được chính xác các bước tiến hành pha dung dịch theo đúng hướng dẫn và sẽ lúng túng trong thao tác. Qua 2 ví dụ trên ta thấy rõ: được thực hành trên vật thật sẽ hình thành cho các em những thói quen tốt , những kĩ năng cần thiết cho cuộc sống có lợi cho sức khỏe: Xem hạn sử dụng, đọc kĩ hướng dẫn trước khi sử dụng, lựa chọn sản phẩm tốt, bảo quản, sử dụng đúng cách… Ví dụ 3: Bài 47 Ánh sáng cần cho sự sống Để có đồ dùng phục vụ cho bài này tôi đã hưỡng dẫn HS chuẩn bị trước một tuần. Mỗi nhóm chuẩn bị 3 hộp giấy (Hộp cà phê,chè); cho đất khoảng 1/3 hộp gieo vào mỗi hộp từ 5 đến 10 hạt đậu, tưới đủ nước ấm. Hộp thứ nhất đậy kín nắp, khoét lỗ 7x7cm bên thành hộp ; hai hộp còn lại cắt bỏ nắp, một hộp để ngoài sân, một hộp để trong góc phòng (thiếu ánh sáng). Với 3 điều kiện trên, cách mọc và màu sắc của cây đậu có sự khác biệt rõ rệt. Đó là bằng chứng thiết thực nhất để HS thấy được vai trò của ánh sáng đối với đời sống thực vật. Tương tự như vậy. Ở bài 57 tôi cũng hướng dẫn HS trồng 5 cây đậu vào hộp nhựa với các điều kiện chăm sóc khác nhau để giúp các em nhận rõ được điều kiện cần thiết để thực vật sống và phát triển bình thường. Từ đó các em có ý thức và bắt đầu biết chăm sóc cây ở gia đình và vườn trường. 2.3.Sử dụng thiết bị thí nghiệm : Mặc dù thí nghiệm môn Khoa học lớp 4 khá đơn giản, việc bố trí lắp đặt cũng không mấy phức tạp song nếu không chuẩn bị kĩ chỉ một sơ suất nhỏ cũng có thể làm cho thí nghiệm không thành công. Khi đó kiến thức được rút ra từ thí nghiệm cũng khiến HS nghi ngờ,Vì vậy việc làm thử trước các thí nghiệm, ghi chép rút kinh nghiệm để khắc phục các sự cố có thể xảy ra đảm bảo cho thí nghiệm thành công là việc làm rất cần thiết. 13

Ví dụ: Bài 35 Không khí cần cho sự cháy Hoạt động 2:Tìm hiểu cách duy trì sự cháy Trong thí nghiệm chứng minh: Muốn diễn ra sự cháy liên tục, không khí phải được lưu thông. Nếu ngọn nến quá nhỏ khi úp cốc thủy tinh thông đáy lên cây nến gắn trên đế kín, nến không tắt được. Ngược lại nếu cây nến to qua thì lại tắt quá nhanh, HS không đủ thời gian quan sát ngọn lửa bé dần rồi tắt hẳn, Do đó phải làm thử trước để chọn được đồ dùng phù hợp. Ngoài ra, cũng cần phải có một số “mẹo” nhỏ khi làm thí nghiệm để HS dễ quan sát các hiện tượng xảy ra trong thí nghiệm đó. Ví dụ : Bài 32 Không khí gồm những thành phần nào? Hoạt động 1:Xác định thành phần chính của không khí. Khi tiến hành thí nghiệm; úp lọ thủy tinh vào cây nến đang cháy gắn trong một đĩa chứa nước, chỉ cần pha vào nước 1-2 giọt mực để nước có màu xanh lơ thì khi nến tắt, nước dâng lên trong lọ(chiếm chỗ lượng khí ô-xi đã mất đi) sẽ quan sát rõ hơn nhiều so với dùng nước trong suốt. Tương tự như vậy đối với bài 51: Nóng, lạnh và nhiệt độ HS cũng thấy được mực nước màu trong ống thủy tinh dâng lên và hạ xuống rõ rệt khi nhúng vào chậu nước sôi và chậu nước đá. 2.4.Tổ chức cho HS hoạt đông với đồ dùng dạy học. Một trong những định hướng của đổi mới phương pháp dạy học là tăng cường tổ chức hoạt động học tập nhằm tạo điều kiện cho HS phát huy tính tích cực, tự tìm tòi phát hiện ra kiến thức. Chính vì vậy trong mỗi giờ học giáo viên đều phải cố gắng lựa chọn những hình thức, phương pháp và phương tiện dạy học phù hợp để có thể tổ chức tốt các hoạt động học tập của HS. Tuy nhiên, hoạt động của HS đối với đồ dùng dạy học thường diễn ra dưới hình thức nhóm, mà HS tiểu học còn nhỏ tuổi, năng lực tổ chức, phối hợp còn hạn chế, sự khéo léo, cẩn trọng trong thao tác chưa nhiều nên dễ 14

nhắc nhở các em một số những lưu ý hoặc kĩ thuật cần thiết trong thao tác thực hành. Ví Dụ : Bài 52: Vật dẫn nhiệt, vật cách nhiệt Hoạt Động 2: Làm thí nghiệm tính cách nhiệt của không khí. Trước khi yêu cầu các nhóm báo cáo các dụng cụ thí nhiệm đã chuẩn bị giáo viên phải nhắc nhở và làm mẫu các thao tác kết hợp phân tích kĩ thuật như : + Cách cầm nhiệt kế (không cầm vào bầu thủy ngân) + Trước khi đo cần vẩy cho mực thủy ngân tụt xuống. + Nhúng nhiệt kế vào hai cốc nước đồng thời. + Cách đọc nhiệt độ (Để nguyên nhiệt kế trong cốc để đọc nhiệt độ sau 5 phút – 10 phút) + Kĩ thuật quấn báo vào 2 cốc và dùng dây chun để cố định + Đánh dấu để lượng nước trong 2 cốc bằng nhau. v.v… Thực tế những năm học trước một số giáo viên thực hiện thí nghiệm này không thành công vì nhiệt độ ở 2 cốc nước trênh lệch nhau rất ít, mà thời gian mỗi tiết học chỉ có 40 phút, không đươc phép đợi lâu. Cũng chính vì vậy kết quả thí nghiệm chưa thuyết phục nên các em khó giải thích được những ứng dụng thực tế về tính cách nhiệt của không khí. Sau nhiều lần làm thử rút ra kinh nhiệm tôi đã hướng dẫn học sinh thực hiện được thành công thí nghiệm này. 3.Sắp xếp bảo quản thiết bị dạy học: Sau khi sử dụng xong giáo viên cần chú ý phân công học sinh các tổ hoặc trực nhật thu đếm thiết bị dạy học cho đầy đủ ,lau cho sạch sẽ rồi mới trả cho cán bộ thiết bị hoặc xếp vào tủ bảo quản.

16

Nếu trong quá trình dạy có hỏng hóc đổ vỡ, bị gãy hoặc mất mát cần cho các tổ thống kê tên thiết bị, nguyên nhân dẫn đến hỏng hóc gẫy vỡ để thông báo với cán bộ thiết bị và nhà trường để có biện pháp khắc phục. Khi xếp đặt thiết bị giáo viên nên chú ý đặt đúng chỗ theo khoa học, theo phân loại thiết bị để lần sau dễ lấy, đễ sử dụng, để kiểm tra nhanh chóng, thống kê chính xác. 4.Sửa chữa thiết bị dạy hoc: Theo tôi người giáo viên cần tìm hiểu sâu thiết bị đặc biệt là vật liệu chế tạo để có thể tự khắc phục một số hư hỏng đơn giản trong quá trình giảng dạy như: Với các mô hình bị gãy, vỡ có thể dùng keo hoặc nến dẻo để gắn lại. Với những dây điện có lõi đồng bị đứt nên hàn lại hoặc nối lại, chú ý an toàn điện. Với tranh ảnh nên gài nẹp, nếu nẹp không chặt có thể dùng băng dính để hỗ trợ. C.KẾT LUẬN I.Kết quả nghiên cứu: Với những cố gắng trên, Việc sử dụng đồ dùng,thiết bị dạy học trong môn Khoa học lớp 4 đã trở thành việc làm thường xuyên của giáo viên và học sinh. Giáo viên có được kĩ năng sử dụng đồ dùng dạy học khá thành thạo góp phần nâng cao chất lượng mỗi giờ dạy. Thiết bị dạy học bền đẹp hơn, ít hư hỏng hơn. Học sinh rất hào hứng khi được làm các thí nghiệm khoa học, thao tác làm thí nghiệm chính xác hơn.

17

Kết quả: 2 Tiết thao giảng môn Khoa học ở Học kì 1 và Học kì 2( có sử dụng đồ dùng dạy học) đều được xếp loại giỏi. Đồ dùng dạy học: Sơ đồ tuần hoàn của nước trong tự nhiên do giáo viên khối 4 tự làm để tham gia dự thi cấp trường đạt nhất. Cũng nhờ được hoạt động thường xuyên với đồ dùng học tập nên HS cũng có được thói quen tốt trong việc chủ động tìm tòi, phát hiện kiến thức. Niềm hứng thú, say mê môn học đã giúp các em nắm chắc những kiến thức cơ bản, có kĩ năng vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế nên nhớ lâu kiến thức đã học. Kết quả kiểm tra định kì cuối kì I (Năm Học 2010 -2011) của khối 4 (37 học sinh) như Sau :

Học sinh đạt

Học sinh đạt

điểm 9 và 10

điểm 7 và 8

Sốlượng Tỉ lệ Sốlượng Tỉ lệ 29

4

Học sinh đạt điểm 5 Học sinh có điểm dưới và 6

5

Sốlượng

Tỉ lệ %

Sốlượng

Tỉ lệ %

1

3

0

0

II.Kiến nghị đề xuất : – Để có thể sử dụng đồ dùng dạy học có hiệu quả tôi xin đề xuất như sau trước hết người giáo viên phải nhận thức được vai trò quan trọng của đồ dùng dạy học. Thầy cô phải thực sự cảm nhận có lỗi đối với học sinh khi mỗi tiết học qua đi một cách buồn tẻ, hời hợt, không đọng lại trong các em những điều mới mẻ bổ ích của môn học. Từ đó mới có thể có đủ say mê và sự kiên trì để suy ngẫm, tìm tòi sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung và sử dụng đồ dùng dạy học nói riêng. 18

– Việc sử dụng đồ dùng dạy học sẽ rất khó thành công nếu như không thực hiện thường xuyên và không biết rút kinh nghiệm. Sau mỗi giờ dạy giáo viên cần tự hỏi : Sử dụng đồ dùng thời điểm ấy đã hợp lý chưa? làm thế nào có tể rút ngắn thời gian trong các thao tác? Nguyên nhân nào khiến học sinh không phát hiện ra kiến thức từ hoạt động với đồ dùng? Cần cải tiến như thế nào có hiệu quả hơn? Rồi trao đổi với đồng nghiệp để có cách khắc phục. Học hỏi kinh nghiệm ở những người đi trước cũng là điều rất nên làm để hoàn thiện khả năng sử dụng đồ dùng dạy học của mình. – Sử dụng đồ dùng dạy học phải được phối hợp hài hòa, thống nhất với hình thức và phương pháp dạy học. Muốn vậy giáo viên phải nghiên cứu kĩ nội dung mục tiêu mỗi bài học trong mối quan hệ với chương trình để có sự lựa chọn hợp lý. Người viết

Phạm Thị Hân

19

Kế Hoạch Sử Dụng Đồ Dùng Dạy Học Môn: Tiếng Anh 6

KẾ HOẠCH SDĐDDH NH : 2015- 2016 MƠN: TIẾNG ANH 6 NGÀY DẠY PPCT BÀI DẠY TÊN ĐDDH MÁY GHI CHÚ 1 HKI Introduction 2 Unit1:A:Hello A1234 Picture of greetings X 3 A:Hello A567 Picture of greetings X 4 B:Good morning B1234 Picture of greetings X 5 C:How old are you?C12 Picture of greetings X 6 C:How old are you?C345 Picture of greetings X 7 Unit 2: A:Come in A1.2.3 Picture of imperative X 8 B: Where do you live? B1.2 X 9 B: Where do you live?B3.4.5. X 10 C:My school C1 Picture of a school X 11 C:My school : C2.3.4 Picture of school things X 12 Unit 3: A:My house: A1.2 Picture of things in the living room X 13 A :My huose A 3.4 Picture of a family X 14 B:Numbers B1.2 X 15 B: Numbers B3.4.5 X 16 C: families C1.2 Interactive board 17 Grammar practice Picture 18 Review 19 Test 45 20 Test correction 21 Unit 4:Where is your schoo?A1.2 Picture of a school X 22 A:Where is your school? :A 3.4 Picture of a school X 23 B:My class :B1.2.3.4.5 Picture of a school X 24 C:Getting ready for school C1.2.3 Picture of activities in the morning X 25 C:Getting ready for school C4.5.6.7 Picture of clocks X 26 Unit 5 A: My day A1.2 .3.4 Picture of activities after school X 27 A: My day :A 5.6.7 Picture of activities after school X 28 B:My routine :B1.2 Picture of daily activities 29 B:My routine : B3.4 30 C:Classes C1 Picture of subjects X 31 C:Classes C2.3 X 32 Grammar Practice 2 33 Unit 6 A: Our house A1.2 Picture of things around the house X 34 A: Our house A 3.4.5.6 Picture of facilities in the neighborhood X 35 B: In the city B1.2.3.4 Picture of facilities in the neighborhood X 36 C: Around the house C1.2 Picture of things around the house X 37 C: Around the house C3.4.5 Picture of facilities in the neighborhood X 38 Review 39 Test 2 40 Test correction 2 41 Unit 7: A: Is your house big ?(A1,2) Picture of facilities in the neighborhood X 42 A: Is your house big ? ( A 3 , 4, 5) Picture of facilities in the neighborhood X 43 B:Town or country ?(B1,2,3) Picture of facilities in the neighborhood X 44 C: On the move (C 1,3) Picture of means of transportation X 45 C: On the move (C 4,5,6) X 46 Unit8: A:What are you doing? A1.2.3 Picture of on-going activities X 47 A :What are you doing? A 4.5.6 Picture of means of transportation X 48 Consolidation 49 The frist examination 50 B: A truck driver B1 Picture of Mr. Quang's work 51 B: A truck driver B 2,3 X 52 C: Road signs C 1,2 Picture of road signs X 53 C: Road signs C 4 Picture of road signs X 54 Grammar practice. 55 Unit9: A:part or the body A1.2 Picture of a body X 56 A:part or the body :A 3.4 Picture of physical descriptions of people X 57 A:part or the body A5.6 X 58 B: Faces B1.2 Picture of a face X 59 B: Faces B4.5.6 X 60 Unit10:A. How do you feel?A1.2 Picture about feelings X 61 A. How do you feel?A3.4 X 62 A. How do you feel?A 5,6 X 63 B.Food and drink B1.2.3 Picture of food and drink X 64 B.Food and drink B4,5 Picture of food and drink X 65 C.My favorite food C1.2.3.4 Picture of food and drink X 66 Unit11: chúng tôi the store A1 Picture of food and drink X 67 A.At the store A2,3 Picture of food and drink X 68 A.At the store A4 69 B.At the canteen B1,2. Picture of food and drink X 70 B.At the canteen B3.4.5. X 71 Grammar practice 72 Test 3 73 Test correction 3 74 Unit12: chúng tôi are they doing? 1.2.3.4.5. Picture of sporting activities X 75 chúng tôi time B1.2.3.4. Picture of activities in freetime X 76 chúng tôi time B5. X 77 C.How often?C1.2.3.4 X 78 C.How often?C5,6 X 79 Unit13: A. The weather and seasons A 1.2 Picture of weather and seasons X 80 A. The weather and seasons A 3,4 Picture of activities in Seasons X 81 B.Activities in seasons B 1 Picture of activities in Seasons X 82 B.Activities in seasons B2+review 13 83 Unit14 A.Vacation destinations A1.2.3 X 84 A.Vacation destinations A4,5 X 85 B. Free time plans B 1,2,3,4 X 86 B. Free time plans B5,6 X 87 C.Suggestions C1 Picture of makimg suggestions X 88 C.Suggestions C2,3 Picture of makimg suggestions 89 Grammar practice 90 Test 4 91 Test correction 4 92 Unit15 A: We are the world A1.2.3 Picture of flags X 93 A: We are the world A4,5,6 X 94 B:Cities,buildings and people B1.2 Picture of comparition X 95 B:Cities,buildings and people B3,4 X 96 C:Natural features C1.2 Picture of Natural features X 97 C:Natural features C3 X 98 Unit16 : A: Animals and plants A 1,2,3 Picture of food X 99 A :Animals and plants A 4 Picture of animals X 100 B:Pollution B1 X 101 B:Pollution B2,3 Picture of environmental issues X 102 B:Pollution B4,5 X 103 Grammar practice 104 Consolidation 105 The second examination KẾ HOẠCH SDĐDDH NH : 2015- 2016 MƠN: TIẾNG ANH 9 NGÀY DẠY PPCT BÀI DẠY TÊN ĐDDH GHI CHÚ 2 Unit1: Getting started, Listen and read Pictures of famouse places in Ha Noi/ page 6 3 Unit 1: Speak, Listen Pictures/ Page 9 4 Unit 1: Read A map of Malaysia 6 Unit 1 : Language focus Pictures of a party 7 Unit 2: Getting started, Listen and read Pictures of traditional clothes of some countries/ page 13 8 Unit 2: Speak + Listen Pictures of clothing/ page 14, 15, 16 9 Unit 2: Read Interactive board 15 Unit 3: Getting started, Listen and read Interactive board 16 Unit 3: Listen A map/ page 25 18 Unit 3: Write Pictures of a country picnic/ Page 26,27 20 Unit 4: Getting started, Listen and read Interactive board 28 Unit 5:Getting started, Listen and read Interactive board 30 Unit 5: Read Interactive board 1 Unit 6:Getting started, Listen and read Interactive board 2 Unit 6: Speak, Listen Interactive board 4 Unit 6: Write Interactive board 3 Unit 6: Languge focus Interactive board 6 Unit 7:Getting started, Listen and read Interactive board 7 Unit 7: Speak, Listen Pictures of saving energy/ Page 59 14 Unit 8: Getting started, Listen and read Interactive board 15 Unit 8:Speak, Listen Interactive board 16 Unit 8: Read Interactive board 17 Unit 8: Write Interactive board 19 Unit 9: Getting started, Listen and read Pictures of Natural disasters/ Page 75 20 Unit 9:Speak, Listen Interactive board 21 Unit 9: Read Interactive board 22 Unit 9: Write Interactive board 27 Unit 10: Getting started, Listen and read Pictures of UFOs/ Page 83 28 Unit 10: Speak, Listen Pictures of drawing of things on Mars

Một Số Kinh Nghiệm Khai Thác Sử Dụng Thiết Bị Đồ Dùng Dạy Học Trong Giảng Dạy Chương Trình Sách Giáo Khoa Mới Ở Lớp 2 Môn Toán Và Tiếng Việt

Phần thứ nhất Đặt vấn đề I. Cơ sở lý luận: Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định: "Phát triển Giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại". Để đạt được mục tiêu, thực hiện nghị quyết 40/2000/QH 10 của Quốc Hội về "Đổi mới giáo dục phổ thông", từ năm học 2002 - 2003 đến nay, Bộ giáo dục và đào tạo đã triển khai và tổng kết thực hiện chương trình sách giáo khoa mới trên phạm vi cả nước. Đổi mới giáo dục Tiểu học, đây là bậc học hình thành cơ bản ban đầu cho sự phát triển toàn diện của một con người sau này, là bậc học đặt nền tảng vững chắc cho giáo dục phổ thông và hệ thống giáo dục quốc dân. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, mà một trong những yếu tố để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện là phải lấy đổi mới phương pháp dạy học làm then chốt. Nhưng, để đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả thì thiết bị và đồ đùng dạy học trở thành một điều kiện không thể thiếu và có vai trò hết sức quan trọng. Bởi vì, thiết bị và đồ đùng dạy học là những công cụ lao động của giáo viên và học sinh. Thông qua những công cụ lao động này, giáo viên và học sinh biết sử dụng hợp lý, đúng quy trình, phù hợp với từng đơn vị kiến thức, nội dung bài học, môn họcthì thiết bị và đồ đùng dạy học sẽ là nguồn phương tiện cung cấp kiến thức cho học sinh. Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý học sinh tiểu học: Bao giờ cũng đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Giáo viên và học sinh sử dụng các thiết bị và đồ đùng dạy học là con đường kết hợp chặt chẽ giữa cái cụ thể và cái trừu tượng, xây dựng cho học sinh biết quan sát một cách có tổ chức , có kế hoạch, biết tư duy một cách độc lập , linh hoạt, sáng tạo, biết tưởng tượng một cách đúng hướng và phong phú. ở mỗi tiết dạy, các phương pháp dạy học chỉ được thực hiện nhờ có sự hỗ trợ của các thiết bị và đồ đùng dạy học nhất định, với những hình thức dạy học nhất định, phối kết hợp những thủ pháp hết sức phong phú đa dạng. Thiết bị và đồ dùng dạy học tự làm đống vai trò cung cấp nguồn thông tin học tập, tạo ra nhiều khả năng để giáo viên trình bày nội dung bài học một cách sâu sắc và thuận lợi trong tất cả các bộ môn, trọng tâm là hai môn Tiếng Việt và Toán. Một trong những yếu tố để đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là đổi mới thiết bị và đồ đùng dạy học theo hướng chuẩn hóa và hiện đại hóa. Việc khai thác sử dụng thiết bị và đồ đùng dạy học trong giảng dạy chương trình sách giáo khoa mới ở lớp 2 là hết sức cần thiết đối với các trường Tiểu học. Đặc biệt là đối với người giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy lớp 2. II. Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn cho thấy: Việc sử dụng thiết bị và đồ đùng dạy học trong giảng dạy đã là một trong truyền thống từ trước đến nay và đem lại hiệu quả cao cho giáo dục. Đặc biệt trong việc đổi mới giáo dục phổ thông thì sử dụng thiết bị và đồ đùng dạy học là một yêu cầu bức thiết. Vì sử dụng thiết bị và đồ đùng dạy học chính là tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học và hoạt động theo hướng tích cực hóa, cá thể hóa người học trong hoạt động học tập, rèn luyện phát huy hết tài năng của mỗi giáo viên và tiềm năng của mỗi học sinh. Thực tế ở các nhà trường và bản thân tôi nhận thấy: Trong một tiết học, các em học sinh được trực tiếp nhìn - nghe - nói và làm cùng thiết bị và đồ đùng dạy học tôi thấy khả năng tiếp thu bài của các em có hiệu quả cao hơn. Như vậy, ở các tiết dạy, người giáo viên thực hiện nghiêm túc, có sự tìm tòi, sáng tạo thì sẽ đem lại kết quả cao. Song trong quá trình giảng dạy chúng tôi thấy nhiều đồ dùng dạy học còn thiếu, chưa thật phù hợp. Hơn nữa, khả năng khai thác, sử dụng thiết bị và đồ đùng dạy học nhất là đồ dùng dạy học tự làm trong giảng dậy chương trình sách giáo khoa mới đối với các giáo viên dạy lớp 2 còn nhiều hạn chế. Từ việc nhận thức, tìm hiểu về cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn, trong quá trình giảng dạy tôi đã trăn trở nghiên cứu tìm tòi và đúc rút được một số kinh nghiệm về việc "Khai thác sử dụng thiết bị - đồ dùng dạy học trong giảng dạy chương trình sách giáo khoa mới ở lớp 2 môn Toán và Tiếng Việt" Phần thứ hai Giải quyết vấn đề A. Yêu cầu về việc sử dụng thiết bị và đồ đùng dạy học ở lớp 2: Yêu cầu cơ bản về sử dụng thiết bị và đồ đùng dạy học đó là: 1. Khai thác sử dụng hợp lý, có hiệu quả các thiết bị sẵn có của Công ty thiết bị giáo dục I Bộ GD & ĐT cung cấp. 2. Khuyến khích, động viên cải tiến và làm mới một số đồ dùng dạy học theo yêu cầu của từng chương, từng bài trong mỗi bọ môn nói chung và hai bộ môn Toán và Tiếng Việt nói riêng. I. Đánh giá việc sử dụng thiết bị và đồ đùng dạy học lớp 2 từ năm học 2003 -2004 đến nay: * Tình hình chung: Thực tế, giáo viên và học sinh lớp 2 ở trường tôi trong những năm qua như sau: 1. Số học sinh giao động từ 80 đến 89 học sinh, chia đều vào 3 lớp. Lớp tôi chủ nhiệm có số học sinh là 28 em. 2. Tỉ lệ giáo viên 1, 15 giáo viên/ lớp. Trình độ - đều có trình độ cao đẳng và đại học sư phạm. 3. Số bộ thiết bị được cáp và được mua: - Bộ đồ dùng thực hành môn Toán của GV: 1 bộ/GV - Bộ đồ dùng thực hành môn Toán của HS: 1 bộ/HS - Bộ mẫu chữ viết: 1 bộ/ lớp - Bộ chữ dạy Tập viết: 1 bộ/ lớp - Các loại thiết bị khác: Cả khối có chung một bộ. Như vậy, Công ty thiết bị Giáo dục I đã cung cấp thiết bị bộ môn Toán cho giáo viên và học sinh khá phong phú và có kèm theo sách hướng dẫn sử dụng tương đối cụ thể đối với từng loại bài. Còn đối với bộ môn Tiếng Việt thì thiết bị và đồ đùng dạy học quá ít ỏi, giáo viên và học sinh phần lớn sử dụng kênh hình và kênh chữ trong sách giáo khoa và sử dụng những đồ dùng dạy học tự làm thủ công. II. Đánh giá về tình hình sử dụng đồ dùng dạy học môn Toán và Tiếng Việt ở lớp 2: Trong năm học qua, giáo viên lớp 2 chúng tôi đã thực hiện việc sử dụng thiết bị và đồ đùng dạy học vào giảng dạy Toán và Tiếng Việt theo đúng sự chỉ đạo của các cấp quản lý giáo dụcvà thực tế cho thấy các giờ học sinh động hơn, giáo viên và học sinh hoạt động nhịp nhàng, học sinh tích cực hơn trong việc tìm tòi lĩnh hội tri thức. Bên cạnh đó, không ít giáo viên còn lúng túng trong khi sử dụng và hướng dẫn học sinh sử dụng bộ thiết bị dạy Toán lớp 2 trong một số nội dung như: So sánh hai số có 3 chữ số; Hình thành sốHay khi dạy các giờ Tập đọc; Luyện từ và câu; Tập làm vănkhông có đồ dùng giảng dạy nên giáo viên có tâm lý ngại tìm tòi làm thêm đồ dùng dạy học phục vụ bài dạy. B. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng thiết bị và đồ đùng dạy học ở lớp 2. I. Nâng cao nhận thức, phát huy năng lực của bản thân và đồng nghiệp. Tôi nhận thức rõ vai trò của người giáo viên Tiểu học là lực lượng giáo dục chính, là người tổ chức quá trình hoạt động của trẻ bằng phương thức nhà trường. Chính vì vậy mà tôi hiểu: Nâng cao chất lượng giáo viên là trọng tâm, đổi mới phương pháp dạy học là then chốt. Từ nhận thức trên, toi đã nghiên cứu kĩ nội dung chương trình sách giáo khoa; tìm hiểu xem cần sử dụng thiết bị và đồ đùng dạy học nào ở mỗi bài, mỗi tiết học, để khai thác sử dụng những đơn vị kiến thức gì? đưa thiết bị và đồ đùng dạy học ra vào thời điểm nào để đạt tính hiệu quả Tích cực dự giờ thăm lớp. Tham gia đầy đủ các buổi sinh hoạt tổ chuyên môn, trao đổi, học tập vè cách sử dụng thiết bị và đồ đùng dạy học. Tìm ra những ưu, nhược điểm của từng thiết bị và đồ đùng dạy học, phát hiện ra những đơn vị kiến thức và nội dung bài học còn thiếu sự hỗ trợ của thiết bị, cần phải làm thêm. Từ đó có hướng suy nghĩ cải tiến một số đồ dùng dạy học còn thiếu tính ưu việt và tự làm mới một số đồ dùng dạy học như: tranh ảnh, bảng biểu, dụng cụ, mẫu vật. II. Sử dụng hợp lý, sáng tạo một số đồ dùng dạy học đã có và cải tiến, tự làm đồ dùng dạy học đáp ứng mục tiêu bài học. 1. Dạy Toán: a - Dạy về phép cộng có nhớ trong phạm vi 100: Thao tác sử dụng đồ dùng dạy học của giáo viên như sau: - Đặt 4 thẻ bó chục và 7 que tính rời (cách ra một khoảng trống để chỗ thêm hai thẻ bó chục) trên bảng nỉ. - Lấy tiếp hai thẻ bó chục và 5 que tính rời. - Gộp 7 que tính với 5 que tính được 12 que tính (gom lại cho 10 que tính sát nhau rồi thay 10 que rời bằng 1 thẻ bó chục và đặt hai que tính còn lại hơi tách ra). - Cộng 4 chục que tính với 2 chục que tính là 6 chục que tính, thêm 1 chục được 7 chục que tính, 7 chục que tính thêm 2 que tính được 72 que tính. Vậy 47 + 25 = 72 Sau khi học sinh thao tác trên bộ que tính, giáo viên hướng dẫn các em đặt tính và nêu miệng cách tính: 47 7 cộng 5 bằng 12 viết 2 nhớ 1 25 4 cộng 2 bằng 6, thêm 1 bằng 7, viết 7 72 b - Dạy về phép trừ có nhớ trong phạm vi 100: Bài 45: Số tròn chục trừ đi một số Thao tác sử dụng đồ dùng dạy học của giáo viên khi giới thiệu cách thực hiện phép trừ 40 - 18 và tổ chức cho học sinh thực hành thao tác với que tính như sau: - Lấy 4 thẻ bó 1 chục đặt trên bảng nỉ (H đặt trước mặt, trên mặt bàn) - Từ 4 thẻ bó 1 chục, lấy một thẻ bó 1 chục, còn lạ 3 thẻ bó 1 chục, thay bó que tính vừa lấy bằng 10 que tính rời. - Bớt đi 8 que tính, còn lại 2 que tính. - Từ 3 thẻ bó 1 chục que tính còn lại, lấy tiếp một thẻ bó chục nữa, còn lại 2 thẻ bó 1 chục. Như vậy, từ 4 thẻ bó 1 chục que tính lấy 1 chục que tính rồi lấy tiếp 1 chục que tính nữa. Kết quả: còn lại hai thẻ bó 1 chục que tính và 2 que tính nên còn lại là 22 que tính. Học sinh thao tác với que tính sau đó đặt tính và tính: 40 0 không trừ được 8 lấy 10 trừ 8 bằng 2, viết 2 nhớ 1 18 1 thêm 1 bằng 2, 4 trừ 2 bằng 2, viết 2. 22 Như vậy, khác với sách giáo khoa lớp 2 của chương trình cũ, phần bài học mới (trong các tiết dạy học bài mới) thường không nêu các kiến thức có sẵn mà thường chỉ nêu các tình huống gợi vấn đề (chủ yếu bằng hình ảnh) để học sinh hoạt động và tự phát hiện ra kiến thức mới theo hướng dẫn của giáo viên cùng sự trợ giúp đúng mức của các thiết bị và đồ dùng dạy học, học tập, đáp ứng theo yêu cầu đổi mới nói chung và phương pháp dạy học bài mới nói riêng. Học sinh tự phát hiện và tự giải quyết nhiệm vụ của bài học, tự chiếm lĩnh kiến thức mới, hình thành được các phương pháp học tập đặc biệt là phương pháp tự học. Mặt khác, còn thiết lập được các mối quan hệ giữa kiến thức mới và kiến thức đã học. Chẳng hạn, khi dạy phép cộng có nhớ trong phạm vi 100 chương trình đã cấu tạo từng bộ ba các bài học dạng: 8 + 5 ; 28 + 5 ; 38 + 25 hoặc 7 + 5 ; 47 + 5 ; 47 + 25; Hay khi dạy phép trừ có nhớ trong phạm vi 100, có bộ ba các bài học dạng: 14 - 8 ; 34 - 8 ; 54 - 8 hoặc 13 - 5 ; 33 - 5 ; 53 - 15; . Và mỗi công thức cần ghi nhớ đều được đặt trong mối quan hệ với các kiến thức đã học. Ví dụ: 11 - 7 được đặt trong mối quan hệ với phép cộng 4 + 7 = 11 ; 7 + 4 = 11 ; và cách tìm một số hạng khi biết tổng và số hạng kia 7 = 11 - 4 ; 4 = 11 - 7 đồng thời với quá trình sử dụng các đồ dùng học tập để tìm ra 11 - 7 = 4 học sinh sử dụng các kiến thức đã học như 11 - 4 = 10 ; 10 - 6 = 4Học sinh trong khi chiếm lĩnh vận dụng kiến thức mới còn tiềm ẩn trong từng bài học ; phát triển các năng lực tư duy của học sinh theo những điều kiện dạy học Toán ở lớp 2. 2. Dạy Tiếng Việt: Mục tiêu giáo dục thường xuyên của môn học là: "Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt. Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt. Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt". Để đạt được mục tiêu trên giáo viên cần nắm vững các quan điểm: dạy giao tiếp, dạy học tích cực, tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh để thực hiện tốt yêu cầu dạy kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (đọc , viết , nghe, nói) để nội dung học tập của học sinh thêm phong phú, tự nhiên và hấp dẫn. Phương pháp đặc trưng của môn học đó là: Phương pháp thực hành giao tiếp, phương pháp đóng vai, phương pháp rèn luyện theo mẫu, phân tích ngôn ngữ và sử dụng phương tiện trực quan. Đồ dùng dạy học đối với bộ môn Tiếng Việt lớp 2 hiện nay mới chỉ có: Mẫu chữ viết trong trường Tiểu học - TTBĐVTA - GC NXB giáo dục 2002. Bộ chữ dạy Tập viết trong trường Tiểu học TTBĐVTA - GDNXB. Hai loại đồ dùng trên dùng cho phân môn Tập viết, chính tả còn các phân môn như Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu, Tập làm văn, giáo viên và học sinh sử dụng kênh hình và kênh chữ trong sách giáo khoa. Chẳng hạn: *Phân môn Tập viết (phần bài mới) Bài 17 : Chữ hoa S Sau khi giới thiệu bài, giáo viên gắn chữ mẫu S cỡ vừa vào bảng nỉ hoặc dùng nam châm gắn trên bảng từ. Hướng dẫn học sinh quan sát và nhận xét chữ S trên bảng bằng hệ thống câu hỏi . + Chữ s cỡ vừa cao mấy li? Gồm mấy nét? Là những nét nào? Nêu cách viết của từng nét? Sau đó giáo viên viết mẫu chữ trên bảng, vừa viết vừa nói cách viết và tiếp tục các quy trình của một tiết Tập viết. * Phân môn Tập đọc: Dùng kênh hình trong sách giáo khoa để giới thiệu bài. Giáo viên có thể to kênh hình trong sách giáo khoa để học sinh dễ quan sát hoặc có điều kiện in sao trên đĩa hình. Ngoài ra, giáo viên có thể dùng tranh ảnh sưu tầm hoặc lọc ra từ bộ thiết bị cũ để sử dụng trong tiết dạy. Hoặc giáo viên dùng mẫu vật để giảng từ mới hay dùng băng ghi âm để giáo viên luyện đọc (ở nhà hoặc trong buổi sinh hoạt chuyên môn) theo băng hay giới thiệu giọng đọc hay cho học sinh nghe. * Phân môn Kể chuyện: Đồ dùng dạy học là các kênh hình và kênh chữ trong sách giáo khoa. Biện pháp dạy học chủ yếu đó là: Sử dụng câu hỏi gợi ý hoặc dàn ý để hướng đẫn học sinh kể lại từng đoạn, tiến tới kể lại toànbộ câu chuyện ..v.. v * Phân môn Tập làm văn - Luyện từ và câu Đồ dùng dạy học chủ yếu là kênh hình và kênh chữ trong sáchgiáo khoa. Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài tập qua những hình thức tổ chức dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo học tập của học sinh theo các bước làm mẫu - nhận xét - thực hành luyện tập. Như vậy, với những thiết bị và đồ dùng dạy học sẵn có, tôi đã nghiên cứu, tìm tòi, khai thác và sử dụng sao cho có hiệu quả nhất ở từng bộ môn, ở từng bài học, từng thiết bị. 3. Phát hiện những điểm còn thiếu tính ưu việt của bộ đồ dùng hiện có và cách khắc phục nâng cao hiệu quả sử dụng trong giờ dạy. Nghiên cứu tự làm đồ dùng dạy học môn Toán và môn Tiếng Việt. * Đối Với bộ môn Toán: Bộ thiết bị dạy học biểu diễn môn Toán lớp 2 khá phong phú. Song chỉ sử dụng được khi tìm hiểu khám phát hiện kiến thức ở phần bài mới và một số bài thực hành. Vì vậy, người giáo viên khi dạy cần tự làm thêm các đồ dùng dạy học Toán phục vụ cho việc thực hành và luyện tập, chơi trò chơi tạo không khí vui tươi, tự nhiên, hấp dẫn trong giờ học, chẳng hạn: Bảng nhân chia, bộ quay sốViệc gắn đồ dùng dạy học (que tính, các tấm nhựa in các chấm tròn, .) trên bảng nỉ có thể thay bằng gắn nam châm sau mỗi tấm nhựa, que tính,.. rất thuận tiện, khoa học và có tính sư phạm. * Đối với bộ môn Tiếng Việt: Thiết bị và đồ dùng dạy học hiện có là quá ít, bất cập với yêu cầu đổi mới hiện nay. Để tiết kiệm thời gian chuẩn bị đồ dùng dạy học cho giáoviên trong một tiết lên lớp, người giáo viên cần nghiên cứu tự làm thêm các đồ dùng dạy học sao cho có hiệu quả ở từng phân môn, từng bài học. Chẳng hạn: + Viết sẵn các từ vào câu ứng dụng để dạy Tập viết hoặc các kiểu chữ để học sinh viết sáng tạo. + Làm tập bài viết mẫu (dùng cho chính tả tập chép). + Phóng to các kênh hình trong sách giáo khoa. + Làm thêm đồ dùng dạy học luyện từ và câu như: báng quay mở rộng vốn từ, bộ thẻ gắn hình các loại cây có tên bấet đầu bằng chữ ch, trđể học sinh thực hành khi làm bài tập và chơi trò chơi. 4. Quá trình nghiên cứu để cải tiến làm mới đồ dùng dạy học "Bộ đĩa ghi hình giảng dạy môn Tiếng Việt lớp 2 chương trình sách giáo khoa mới phân môn Tập đọc + Kể chuyện + Tập làm văn" Với phân môn kể chuyện thì tranh ảnh trong sách giáo khoa thực sự là công cụ để các em làm việc. Xuất phát từ nhận thức trên, tôi dã suy nghĩ để cải tiến, làm mới đồ dùng dạy học mang tên "Đĩa ghi hình giảng dạy bộ môn Tiếng Việt lớp 2 chương trình sách giáo khoa mới phân môn Tập đọc + Kể chuyện + Tập làm văn". Đây là một loại băng hình sách giáo khoa giúp học sinh quan sát ở nhiều góc độ sinh động hơn. bộ đĩa ghi hình đã được in sao thành công theo sách giáo khoa bằng các phương tiện hiện đại kết hợp với sử dụng côngnghệ khoa học tiên tiến, bảo đảm được các yêu cầu: + Tính khoa học + Tính Sư phạm + Tính thẩm mĩ + Tính thừa kế + Tính hiệu quả. Đĩa ghi hình đã phần nào khắc phục được những hạn chế thường gặp trong các tiết dạy phân môn Tập đọc + Kể chuyện + Tập làm văn. Chơ trò chơi theo sách "Trò chơi Tiếng Việt 2" của tác giả Trần Mạnh Hưởng như: nhìn tranh kể đoạn, bắt lỗi kể sai, nối dây kể chuyện giáo viên không còn lúng túng với kênh hình khổ nhỏ in trong sách giáo khoa hoặc phóng to hay thuê thợ vẽ thủ công (không đảm bảo độ chuẩn của kênh hình) để sử dụng trong tiết dạy. Việc in tranh trên đĩa hình đã góp phần kích thích sự hứng thú học tập của học sinh tạo được sự cảm thụ sâu sắc trong nhận thức của các em ở từng nội dung bài học. Giảm số lần thao tác của giáo viên khi trình bày các đơn vị kiến thức theo mục tiêu của tiết học. Đồ dùng dạy học đảm bảo được độ bền đẹp theo hướng hiện đại hóa đổi mới thiết bị và đồ dùng dạy học hiện nay. Nâng hiệu quả giờ dạy và đây cũng là một trong những yêu cầu về đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Thao tác sử dụng đồ dùng dạy học này thật đơn giản. Chẳng hạn: Tiết: Kể chuyện : Có công mài sắt có ngày nên kim (phần bài mới) Giới thiệu bài: Giáo viên hướng dẫn học sinh kể lại đoạn 1 theo tranh. Bấm "Play" cho hiện lên màn hình từ tranh 1 đến tranh 4 để học sinh kể. Việc chuyển đĩa hình này vào các bài giảng điện tử, tạo hiệu ứng xuất hiện, hiệu ứng chuyển động, hiệu ứng kết thúc để sử dụng từng tranh cũng rất đơn giản. giáo viên có thể sử dụng bất kì tranh nào theo yêu cầu của bài. III. Kết quả của việc sử dụng đồ dùng dạy học tự làm Kết quả cụ thể: Sau khi xin phép Ban giám hiệu nhà trường tôi đã tiến hành thực nghiệm dạy ở 2 lớp 2A và 2C với tiết Kể chuyện: "Có công mài sắt có ngày nên kim", hai lớp này có số học sinh bằng nhau và mặt bằng nhận thức ngang nhau. Lớp 2A dạy theo tranh vẽ, lớp 2C dạy có sử dụng đĩa ghi hình. Đây là bảng thống kê số liệu kết quả đạt được ở hai lớp : Tổng số H Giỏi Khá TB Lớp SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) Lớp 2A: 31 3 9,7 10 32,2 18 58,1 Lớp 2B: 31 10 32,2 15 48,4 6 19,4 Nhìn vào bảng thống kê ta thấy việc sử dụng đĩa ghi hình vào giảng dạy phân môn Kể chuyện ở lớp 2C có chất lượng và hiệu quả cao hơn hẳn lớp 2A, học sinh hào hứng tích cực trong giờ học. Qua trao đổi, trò chuyện với các em thì hầu hết học sinh đều thích được học tập khi sử dụng màn hình, trình chiếu. "Đĩa ghi hình giả

Bạn đang đọc nội dung bài viết Một Số Biện Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Sử Dụng Đồ Dùng Dạy Học Môn Tiếng Việt Lớp Hai trên website Maytinhlongthanh.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!