Đề Xuất 6/2023 # Học Số Đếm,Tuổi,Vật,Ngày Tháng Tiếng Nhật Tưởng Dễ Mà Dễ Không Tưởng # Top 9 Like | Maytinhlongthanh.com

Đề Xuất 6/2023 # Học Số Đếm,Tuổi,Vật,Ngày Tháng Tiếng Nhật Tưởng Dễ Mà Dễ Không Tưởng # Top 9 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Học Số Đếm,Tuổi,Vật,Ngày Tháng Tiếng Nhật Tưởng Dễ Mà Dễ Không Tưởng mới nhất trên website Maytinhlongthanh.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

1. Học cách đếm số trong tiếng Nhật từ 1 – 10

いち ー ichi

に ー ni

さん ー san

よん・し ー yon・shi

ご ー go

ろく ー roku

しち・なな ー shichi・nana

はち ー hachi

きゅう ー kyuu

じゅう ー jyuu

Ví dụ 1 : 10 + 1 → 11

じゅう+いち → じゅういち ( jyuu + ichi → jyuuichi )

Ví dụ 2: 2 + 10 → 20

に+じゅう → にじゅう ( ni + jyuu → nijyuu )

Ví dụ 3: 20+ 1 = 2 + 10 + 1 → 21

に+じゅう+いち → にじゅういち ( ni + jyuu + ichi → nijyuuichi )

Vậy tương tự chúng ta sẽ có

13.じゅうさん ― jyuusan

。。。

22.にじゅうに ― nijyuuni

23.にじゅうさん ― nijyuusan

。。。

29.にじゅうきゅう ― nijyuukyuu

30.さんじゅう ― sanjyuu

31.さんじゅういち ― sanjyuuichi

。。。

99.きゅうじゅうきゅう ―kyuujyuukyuu

100.ひゃく ― hyaku

3. Số đếm tiếng Nhật từ 100 đến 1000

Vd1: 100 + 1 → 101

ひゃく+いち → ひゃくいち ( hyaku + ichi → hyakuichi )

Vd2: 100 + 10 → 110

ひゃく+じゅう→ ひゃくじゅう ( hyaku + jyuu → hyaku jyuu )

Vd3: 100 + 15 → 115

ひゃく+じゅう+ご→ ひゃくじゅうご ( hyaku + jyuu + go → hyakujyuugo )

Vậy tương tự chúng ta sẽ có

199 .ひゃくきゅうじゅうきゅう       ―hyakukyuujyuukyuu

。。。

200.にひゃく               ― nihyaku

201.にひゃくいち              ― nihyakuichi

。。。

299.にひゃくきゅうじゅうきゅう        ― nihyakukyuujyuukyuu

300.さんびゃく              ― sanbyaku

301.さんびゃくいち              ― sanbyakuichi

。。。

399.さんびゃくきゅうじゅうきゅう        ―sanbyakukyuujyuukyuu

400.よんひゃく            ― yonhyaku

401. よんひゃくいち ― yonhyakuichi

499. よんひゃくきゅうじゅうきゅう ― yonhyakukyuujyuukyuu

500. ごひゃく ― gohyaku

501. ごひゃくいち ― gohyakuichi

599. ごひゃくきゅうじゅうきゅう ― gohyakukyuujyuukyuu

600. ろっぴゃく ― roppyaku

601. ろっぴゃくいち ― roppyakuichi

699. ろっぴゃくきゅうじゅうきゅう ― roppyakukyuujyuukyuu

700. ななひゃく ― nanahyaku

701.  ななひゃくいち ― nanahyakuichi

799. ななひゃくきゅうじゅうきゅう ― nanahyakukyuujyuukyuu

800. はっぴゃく ― happyaku

801. はっぴゃくいち ― happyakuichi

899. はっぴゃくきゅうじゅうきゅう ― happyakukyuujyuukyuu

900. きゅうひゃく ― kyuuhyaku

901. きゅうひゃくいち ― kyuuhyakuichi

999. きゅうひゃくきゅうじゅうきゅう ― kyuuhyakukyuujyuukyuu

1000.  いっせん ― issen

4. Số đếm tiếng Nhật từ 1000 đến 100000000

*1000 : Đứng 1 mình thì sẽ đọc là ” issen” . Nhưng đi ghép với những số khác để tạo thành

chữ số mình sẽ đọc là ” sen “

*10000: Ở Việt Nam đơn vị lớn nhất là 1000 nhưng ở Nhật Bản đơn vị lớn nhất sẽ là 10000.

Vậy nên lúc này với 4 số 0 mình sẽ không đọc là 10.000 mà sẽ đọc là 1.0000 ” ichiman”

Vậy chúng ta sẽ có

1001 .せんいち       ―senichi

1010. せんじゅう       ―senjyuu

1100. せんひゃく       ―senhyaku

1199.  せんひゃくきゅうじゅうきゅう   ―senkyuuhyakukyuujyuukyuu

2000.  にせん       ―nisen

2999.  にせんひゃくきゅうじゅうきゅう ―nisenkyuuhyakukyuujyuukyuu

3000.  さんぜん       ―sanzen

3999.  さんぜんひゃくきゅうじゅうきゅう ―sanzenkyuuhyakukyuujyuukyuu

4000.  よんせん       ―yonsen

4999.  よんせんひゃくきゅうじゅうきゅう ―yonsenkyuuhyakukyuujyuukyuu

5000.  ごせん       ―gosen

5999.   ごせんひゃくきゅうじゅうきゅう ―gosenkyuuhyakukyuujyuukyuu

6000.  ろくせん       ―rokusen

6999.  ろくせんひゃくきゅうじゅうきゅう ―rokusenkyuuhyakukyuujyuukyuu

7000.  ななせん       ―nanasen

7999.  ななせんひゃくきゅうじゅうきゅう ―nanasenkyuuhyakukyuujyuukyuu

8000.  はっせん       ―hassen

8999.  はっせんひゃくきゅうじゅうきゅう ―hassenkyuuhyakukyuujyuukyuu

9000.  きゅうせん       ―kyuusen

9999.  きゅうせんひゃくきゅうじゅうきゅう ―kyuusenkyuuhyakukyuujyuukyuu

10000. いちまん       ―ichiman

10100. ひゃくきゅうじゅうきゅう      ―ichimanhyaku

100000. じゅうまん       ―hyakukyuujyuukyuu

1000000. ひゃくまん       ―hyakuman

10000000. せんまん ―senman

100000000.いちおく ―ichioku

Khoá học tiếng Nhật online sẽ giúp bạn học bảng đếm số này chỉ trong vòng 02 video bài giảng . Đặc biệt khoá học đang có chương trình ưu đãi 50% khoá học chỉ còn 699.000đ ( áp dụng trong ngày hôm nay )

Đếm tưởng nhật tưởng không dễ mà dễ không tưởng đúng không các bạn ?

Nhóm 1:

– Đếm đồ vật dài (bút, chai, trái chuối): số đếm + ほん/ぼん/ぽん– Đếm ly, cốc, tách, chén: số đếm + はい/ばい/ぱい– Đếm thú vật nhỏ (mèo, cá, côn trùng): số đếm +ひき/びき/ぴきCác biến thể trong nhóm này:– 1 cái/con: いっぽん/いっぱい/いっぴき– 6 cái/con: ろっぽん/ろっぱい/ろっぴき– 8 cái/con: はっぽん/はっぱい/はっぴき– 10 cái/con: じゅっぽん(じっぽん)/じゅっぱ い(じっぱい)/じゅっぴき(じっ ぴ き)– 3 cái/con: さんぼん/さんばい/さんびきHỏi bao nhiêu: なんぼん/なんばい/なんびき

Nhóm 2:– Đếm nhà: số đếm + けん/げん– Đếm tầng lầu: số đếm + かい/がい

Các biến thể trong nhóm này:

– 1 căn/tầng: いっけん/かい– 6 căn/tầng: ろっけん/かい– 8 căn/tầng: はっけん/かい– 10 căn/tầng: じゅっけん/かい(じっかい)– 3 căn/tầng: san + gen/gai  さんげん/さんがい

Hỏi bao nhiêu: なんげん/なんがい

– Đếm đồ vật theo cặp (giày, dép): số đếm +そく/ぞく

Các biến thể trong nhóm này:– 1 cặp (giày, dép) : いっそく– 8 cặp (giày, dép) : はっそく– 10 cặp (giày, dép) : じゅっそく– 3 cặp (giày, dép) : さんぞく

Nhóm 4:

– Đếm lần: số đếm + かい– Đếm đồ vật nhỏ (cục gôm, xí ngầu): số đếm + こ– Đếm tháng: số đếm + かげつCác biến thể trong nhóm này: giống nhóm 2 nhưng ko có biến thể “3” và “hỏi bao nhiêu” (nghĩa là 3 lần vẫn là san kai さんかい, 3 tháng vẫn là さんかげつ). Trường hợp đặc biệt: riêng 6 tháng còn có 1 từ khác はんとし (nửa năm).

Nhóm 5:

– Đếm tuổi: số đếm +さい– Đếm sách vở: số đếm + さつ– Đếm đồ vật theo bộ (quần áo): số đếm +ちゃく– Đếm tuần: số đếm + しゅうかんCác biến thể trong nhóm này: (chú ý, ko có biến thể “6”)

– 1 tuổi/cái/tuần: いっさい/いっさつ/いっちゃく/ いっじゅうか– 8 tuổi/cái/tuần:はっさい/はっさつ/はっちゃく/ はっしゅうかん– 10 tuổi/cái/tuần:じゅっさい/じゅっさつ/じゅっち ゃく/じゅっしゅうかん

Nhóm 6:– Đếm thứ tự: số đếm + ばん– Đếm đồ vật mỏng (lá thư, tờ giấy, áo sơ mi): số đếm + まい– Đếm máy móc, xe cộ: số đếm + だい

Nhóm 7:– Đếm ngày: Số đếm + にちCác biến thể trong nhóm này:– Ngày 1: ついたち– Ngày 2: ふつか– Ngày 3: みっか– Ngày 4: よっか– Ngày 5: いつか– Ngày 6: むいか– Ngày 7: なのか– Ngày 8: ようか– ngày 9: ここのか– ngày 10:とおか– ngày 14:じゅうよっか– ngày 17:じゅうしちにち– ngày 19:じゅうくにち– ngày 20: はつか– ngày 24: にじゅうよっか– ngày 27: にじゅうしちにち– ngày 29: にじゅうくにち

Học ưu đãi 50% học phí khoá học

Riki Nihongo!

Học Tiếng Indonesia Dễ Dàng Hơn Bạn Tưởng

Học tiếng Indonesia dễ dàng hơn bạn tưởng

Tiếng Indonesia là một trong số những ngôn ngữ không hề dễ học. Bài viết này sẽ chia sẻ một cách chân thật các kinh nghiệm học tiếng Indonesia của những người đã học ngôn ngữ này thành công.

Mặc dù đây không phải là ngôn ngữ dễ học tuy nhiên khác với những ngôn ngữ khác, những điều khó khăn khi học tiếng Indonesia lại được nói tới nhiều hơn là những điều dễ dàng. Thông thường nhiều người lại hay tập trung vào những điều khó khăn hơn dễ dàng, điều này gây hiểu lầm cho nhiều người thậm chí giết chết mong muốn muốn được học của những người có ý định học tiếng Indonesia.

1. Học tiếng Indonesia có thực sự khó như bạn nghĩ

Theo bạn nghĩ điều gì làm cho tiếng Indonesia rất khó đối với người học? Có rất nhiều lý do được đưa ra và hầu như tất cả chúng đều tập trung vào ngữ pháp.

– Danh từ có ba giới tính (đực, cái, lưỡng tính), tuy nhiên một số nhà ngôn ngữ học tính là năm giới tính. – Mỗi danh từ và tính từ có thể xuất hiện một trong bảy trường hợp. – Động từ liên hợp về giới tính, người, tâm trạng và thời gian (tùy thuộc vào cách bạn đếm, điều này làm cho hơn 25 hình thức của mỗi động từ) – Động từ có hai khía cạnh (trong khi tiếng Anh không có khía cạnh ngữ pháp)

Mới chỉ nhiêu đó thôi đã khá là phức tạp rồi. Tuy nhiên bạn đừng vội kết luận rằng tiếng Indonesia khó học và từ bỏ ý định học tiếng Indonesia. Bởi có thể ngữ pháp của nó khó nhưng bù lại sẽ có một khía cạnh nào đó dễ hơn. Theo chúng tôi thì thực tế bất cứ ngôn ngữ nào cũng khó học nhưng nó cũng sẽ có một mặt nào đó dễ học, không có gì là tuyệt đối. Và thậm chí các ngôn ngữ đều khó học như nhau. Một ví dụ điển hình là bạn nói tiếng Việt với hệ chữ Latin thì bạn sẽ học tiếng Indonesia hay tiếng Anh dễ hơn là tiếng Nhật, tiếng Thái chẳng hạn. Vì hệ chữ của Tiếng Việt thì có sự tương đồng với hệ chữ tiếng Anh và tiếng Indonesia hơn là tiếng Thái, tiếng Nhật. Như vậy có thể nói rằng học ngữ pháp tiếng Indonesia không phải là điều dễ dàng.

Mặc dù mỗi từ của tiếng Indonesia có rất nhiều hình thức riêng biệt và đây sẽ là một thách thức đối với người học. Tuy nhiên có thể bạn sẽ bất ngờ với tiếng Indonesia ở đặc điểm sau: không có trật tự của các từ trong câu và tiếng Indonesia không có bài viết. Có thể thời gian đầu bạn sẽ khá là bối rối vì điều đó, tuy nhiên nó sẽ không kéo dài, bạn chỉ cần vài ngày để làm quen với điều đó. Nếu như trong tiếng Việt có trật tự từ chẳng hạn như “Hôm nay bạn đi đâu thế?”, chúng ta không thể nói “Bạn đâu đi thế hôm nay?” rõ ràng nghe rất bất tự nhiên và nó không đúng cấu trúc ngữ pháp. Còn trong tiếng Indonesia thì điều đó là không giới hạn. Bạn có thể đảo trật tự các từ trong câu thoải mái mà người nghe vẫn có thể hiểu được ý mà bạn muốn diễn đạt. Hơn nữa trong tiếng Indonesia không hề có bài viết, vì vậy bạn không cần phải lo lắng về điều này.

Jan kocha Marię Marię kocha Jan kocha Jan Marię Marię Jan kocha

Tất cả những câu trên mặc dù đã đổi vị trí của từ nhưng ý nghĩa của chúng chỉ có một ý nghĩa duy nhất là “Jan yêu Maria”. Đương nhiên câu này khác hoàn toàn với câu “Maria yêu Jan” và “yêu Maria Jan” (câu này hoàn toàn vô nghĩa). Nói tóm lại bạn không cần phải lo lắng về trật tự của các từ trong câu.

Chính vì không có trật tự từ trong câu cho nên nó sẽ khá là uyển chuyển trong thơ ca và âm nhạc.

Mặt khác khi học tiếng Anh chắc chắn bạn sẽ phải học rất nhiều thì của động từ.

Ví dụ:

Như vậy trong tiếng Anh có 12 thì tổng cả. Nếu bạn tính các thì như nhau trong tiếng Indonesia, thì chỉ có 5, chính xác là có 3 thì và 2 khía cạnh. Các câu sau đây: “Tôi đọc”, “Tôi đang đọc”, và “Tôi đã đọc”, tất cả chúng sẽ được dịch sang tiếng Indonesia cùng một cách là “đọc hiểu”.

Vì vậy, thời gian đầu làm quen với tiếng Indonesia có thể bạn sẽ thấy nó khá và khó, bạn sẽ bối rối về sự khác biệt này. Tuy nhiên, một khi bạn đã quen với cách sử dụng động từ của tiếng Indonesia thì nó sẽ dễ dàng hơn nhiều.

Bảng chữ cái là 95% ngữ âm

Tương tự với Tiếng Việt, bảng chữ cái của Indonesia có 95% là ngữ âm. Một khi bạn đã biết các quy tắc bạn có thể nhìn vào từng từ và phát âm nó. Đây chính là một ưu điểm giúp bạn học bảng chữ cái tiếng Indonesia dễ dàng hơn nhiều thứ tiếng khác. Khác với tiếng Anh, một ngôn ngữ không hề có quy tắc phát âm. Nếu như bạn gặp phải một từ mà bạn chưa bao giờ gặp bạn sẽ không biết cách phát âm nó, thậm chí là đối với người bản xứ. Và khi phát âm sai thì đương nhiên người nghe sẽ không hiểu bạn đang muốn nói gì.

Rất nhiều từ vựng tiếng Indonesia với gốc La tinh

Tiếng Indonesia có rất nhiều tự vựng gốc La tinh. Chủ yếu do quan hệ của nó với Giáo hội Công giáo La Mã, ngôn ngữ La Tinh có một lịch sử lâu dài ở Indonesia. Vì lý do này, nhiều từ có nguồn gốc La tinh đã thấm vào ngôn ngữ Indonesia. Nếu bạn muốn bắt đầu học tiếng Indonesia, chúng tôi khuyên bạn nên dùng Real Polish, đó là blog và podcast bằng tiếng Indonesia với một số nội dung tuyệt vời cho những ai đang học tiếng Indonesia.

2. Học tiếng Indonesia với phim ảnh

Một khi bạn đã học tiếng Indonesia bạn sẽ nghĩ rằng tiếng Indonesia là ngôn ngữ rất đẹp. Thậm chí bạn có thể thay đổi cuộc đời mình nhờ tiếng Indonesia. Bạn có thể sẽ có nhiều cơ hội việc làm hơn là chỉ biết Tiếng Việt và Tiếng Anh. Đó là điều chắc chắn! Càng biết nhiều ngôn ngữ, cơ hội càng đến với bạn nhiều hơn. Cơ hội nhiều hơn đồng nghĩa với điều gì chắc không cần phải nói bạn cũng đã biết. Vì vậy đừng bao giờ ngần ngại học một ngôn ngữ mới!

Tags: Học tiếng Indonesia hiệu quả, cách học tiếng Indonesia, phương pháp học tiếng Indonesia, học tiếng Indonesia qua phim, kinh nghiệm học tiếng Indonesia, từ vựng tiếng Indonesia, học ngữ pháp tiếng Indonesia, học bảng chữ cái tiếng Indonesia, học tiếng Indonesia dễ dàng

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

Làm Thử Đề Thi Môn Tiếng Việt Trong Kỳ Thi Đại Học Hàn Quốc: Tưởng Không Khó Mà Khó Không Tưởng, Đến Người Việt Còn Lú

Ngày 15/11 vừa qua, 595.000 học sinh lớp 12 ở Hàn Quốc chính thức bước vào kỳ thi tuyển sinh đại học (còn gọi là CSAT hay Suneung). Trong vòng 8 tiếng, các sĩ tử sẽ thực hiện bài thi các môn Hàn ngữ, Toán, Tiếng Anh, Lịch sử, Khoa học (tự chọn Khoa học Tự nhiên hoặc Khoa học Xã hội), Ngoại ngữ 2. Điểm số của những bài thi này sẽ quyết định các bạn trẻ có cơ hội giành được tấm vé học tập tại những trường đại học danh tiếng hay không.

Trong các môn ngoại ngữ thứ hai, tiếng Việt là môn được lựa chọn thi nhiều nhất. Bài thi Tiếng Việt trong kỳ thi tuyển sinh Đại học ở Hàn Quốc gồm 30 câu hỏi trắc nghiệm: Kiểm tra ngữ pháp, từ vựng, cách dùng từ trong tiếng Việt, kéo dài trong 40 phút.

Vì chúng ta là người Việt nên sẽ thấy đề thi này siêu dễ nhưng với người Hàn Quốc thì đó là một thử thách vô cùng lớn. Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam, những câu hỏi tưởng chừng đơn giản lại là câu đánh đố đối với thí sinh dự thi Đại học ở Hàn.

Đề thi vào các trường Đại học Hàn Quốc sẽ do những giáo viên giỏi biên soạn. Thầy cô sẽ được đưa đến một địa điểm bí mật, bị cách ly và cắt đứt liên lạc với bên ngoài cho đến khi kỳ thi kết thúc. Điều này để tránh việc đề thi có thể bị lộ ra bên ngoài.

Cũng như nhiều nước châu Á, người dân Hàn Quốc coi việc đỗ đại học là chìa khóa của sự thành công. Học sinh phải chịu áp lực học tập và thi cử nặng nề. Kỳ thi Đại học ở Hàn Quốc được nhiều người gọi là “kỳ thi địa ngục”, bởi với việc ghi danh vào một trường đại học sẽ là bước đầu tiên đảm bảo nghề nghiệp tương lại, cuộc sống đầy đủ, thậm chí ảnh hưởng đến cả hôn nhân.

Nếu không vượt qua kỳ thi này, cánh cửa tương lai có thể đóng sập lại với nhiều bạn trẻ. Hàng năm, sau khi báo kết quả kỳ thi, có những học sinh tự tử vì biết mình trượt.

Theo tạp chí giáo dục Quartz của Hàn Quốc, học sinh nước này có xu hướng học nhiều nhất trên thế giới. Số liệu từ tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế thống kê: với giờ học trung bình là 1.020 giờ một năm, học sinh Hàn Quốc đang học quá 134 giờ so với tiêu chuẩn.

Khoa Học Viễn Tưởng Nhật Bản

Lịch sử

Nguồn gốc

Cả lịch sử công nghệ và thần thoại của Nhật Bản đều đóng một vai trò trong sự phát triển của khoa học viễn tưởng. Một số tác phẩm văn học thời kỳ đầu của Nhật Bản có chứa các yếu tố của tiền-khoa học viễn tưởng. Văn học Nhật Bản thời kì đầu có tác phẩm ” Urashima Tarō” kể về việc du hành vượt thời gian đến một tương lai xa,[1] và lần đầu tiên được mô tả trong Nhật Bản thư kỷ (720).[2] Câu chuyện kể về một ngư dân trẻ tên là Urashima Taro đến thăm một thủy cung và ở đó trong ba ngày. Sau khi trở về quê nhà, chàng thấy mình đang ở tương lai ba trăm năm sau, nơi chàng đã bị lãng quên, ngôi nhà trở nên hoang tàn và gia đình chàng đã trở thành người thiên cổ. Một câu chuyện dân gian của Nhật Bản vào thế kỷ thứ 10, Công chúa ống tre cũng có thể được coi là tiền-khoa học viễn tưởng. Nhân vật chính của câu chuyện, Kaguya- hime, một công chúa đến từ Mặt trăng, nàng được gửi đến Địa Cầu để lánh nạn khỏi cuộc chiến tranh thiên giới. Nàng được tìm thấy và nuôi dưỡng bởi một người tiều phu ở Nhật Bản. Nàng sau đó được đưa trở lại Cung Trăng bởi gia đình ngoài trái đất thực sự của mình. Một bản phác thảo minh họa mô tả một cỗ máy bay tròn tương tự như một chiếc đĩa bay.[3]

Khoa học viễn tưởng theo nghĩa hiện đại tiêu chuẩn bắt đầu từ thời Minh Trị Duy tân với có sự du nhập ảnh hưởng của văn hóa phương Tây. Tác phẩm khoa học viễn tưởng đầu tiên về bất kỳ ảnh hưởng nào được dịch sang tiếng Nhật là tiểu thuyết của Jules Verne.[4] Bản dịch của Vòng quanh thế giới trong tám mươi ngày được xuất bản vào năm 1878-1880, tiếp theo là các tác phẩm khác của ông cũng được phổ biến rộng rãi. Từ kagaku shōsetsu được coi là bản dịch của “scientific novel” từ năm 1886.[5]

Oshikawa Shunrō thường được coi là tổ tiên của khoa học viễn tưởng Nhật Bản. Tác phẩm đầu tay của ông Kaitei Gunkan (Chiến hạm dưới đáy biển), xuất bản năm 1900, đã mô tả các tàu ngầm và dự đoán một cuộc chiến tranh Nga-Nhật cận kề.

Trong thời kỳ giữa các cuộc chiến tranh thế giới, khoa học viễn tưởng Nhật Bản chịu ảnh hưởng nhiều hơn từ khoa học viễn tưởng Hoa Kỳ. Một nhà văn nổi tiếng của thời đại là Unno Jūza, đôi khi được gọi là “cha đẻ của khoa học viễn tưởng Nhật Bản”. Các tiêu chuẩn văn học của thời đại này, và trước đó, có xu hướng đánh giá thấp. Trước Thế chiến II, người Nhật hiếm khi xem khoa học viễn tưởng là một thể loại văn học chính thống. Thay vào đó, nó được coi là một hình thức văn học tầm thường dành cho trẻ em.

Một nhân vật được coi là siêu anh hùng chính thức đầu tiên là nhân vật Kamishibai Nhật Bản, Ōgon Bat, nhân vật đã ra mắt vào năm 1930, tám năm trước Superman. Một siêu anh hùng Kamishibai tương tự khác của Nhật Bản là Prince of Gamma, người đã ra mắt vào đầu những năm 1930, cũng nhiều năm trước Superman.[6]

Sau Thế chiến II

Mangaka Tezuka Osamu, người đã bắt đầu sự nghiệp của mình vào năm 1946 có tầm ảnh hưởng to lớn đến các tác giả khoa học viễn tưởng sau này. Lost World – Zenseiki (1948), Metoroporisu (1949) và Kitarubeki Sekai (1951) được gọi là bộ ba khoa học viễn tưởng đầu tiên của Tezuka. Tác giả tiên phong của thể loại Abe đã viết các tác phẩm thuộc thể loại khoa học viễn tưởng, giai đoạn về sau ông có mối quan hệ chặt chẽ với các tác giả khoa học viễn tưởng.[5] Tác phẩm Dai-Yon Kampyōki (1958-1959) của ông được coi là cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng đầy đủ đầu tiên của Nhật Bản.[7]

Thời đại của khoa học viễn tưởng Nhật Bản hiện đại bắt đầu với ảnh hưởng của những quyển sách bìa mềm mà quân đội chiếm đóng của Hoa Kỳ mang đến Nhật Bản sau Thế chiến II. Tạp chí khoa học viễn tưởng đầu tiên ở Nhật Bản, Seiun được thành lập vào năm 1954 nhưng đã bị ngừng hoạt động khi chỉ mới xuất bản được một số ra. Một số tạp chí ngắn hạn đã theo chân Seiun tại thị trường Nhật Bản, nhưng không có tạp chí nào đạt được thành công lớn.

Khoa học viễn tưởng ở Nhật Bản đã trở nên phổ biến vào đầu những năm 1960. Cả Hayakawa’s S-F Magazine (từ năm 1959) và tạp chí khoa học viễn tưởng khoa học viễn tưởng Uchūjin ( 1957-2013) đã bắt đầu xuất bản trong thập kỷ này. Công ước Khoa học Viễn tưởng Nhật Bản đầu tiên được tổ chức vào năm 1962. Một hiệp hội nhà văn, Hội Nhà văn Khoa học viễn tưởng và Kỳ ảo Nhật Bản (SFWJ) được thành lập năm 1963 với mười một thành viên.

Các tác giả đáng chú ý như Komatsu Sakyo, Tsutsui Yasutaka, Mayumura Taku, Hanmura Ryo và Toyota Aritsune đã ra mắt tại cuộc thi Hayakawa SF. Các tác giả đáng chú ý khác, như Hoshi Shinichi, Mitsuse Ryu, Hirai Kazumasa, Kyodomari Aran và Aramaki Yoshio, cũng được xuất bản [8]. Mặc dù chịu ảnh hưởng của phương Tây, tác phẩm của họ vẫn có nét đặc trưng của văn hóa Nhật Bản. Ví dụ, Hirai Kazumasa, Toyota Aritsune và Shibano Takumi đã viết tiểu thuyết cũng như cốt truyện cho anime và manga khoa học viễn tưởng, là một trong những ví dụ nổi bật nhất về những đóng góp của Nhật Bản cho thể loại khoa học viễn tưởng.

Sự đóng góp của các dịch giả xuất sắc như Yano Tetsu, Noda Masahiro, Asakura Hisashi và Ito Norio đã giới thiệu khoa học viễn tưởng tiếng Anh cho độc giả ở Nhật Bản và ảnh hưởng lớn đến dư luận về khoa học viễn tưởng. Biên tập viên đầu tiên của Tạp chí SF, Fukushima Masami cũng là một tiểu thuyết gia và dịch giả xuất sắc.

Trong thể loại truyền thông hình ảnh, hãng phim Toho đã sinh ra thể loại phim Kaiju vào năm 1954 với Godzilla. Tsuburaya Eiji đạo diễn các hiệu ứng đặc biệt cho các bộ phim của Toho đã thành lập studio riêng của chính mình và tạo ra Ultraman vào năm 1966. Truyện tranh của Tezuka Atom – Cậu bé tay sắt (1952-1968) đã trở thành loạt anime truyền hình Nhật Bản đầu tiên vào năm 1963.

Ảnh hưởng và lan rộng

Sự quan tâm của công chúng đối với khoa học viễn tưởng đã tăng lên đáng kể ở Nhật Bản bởi Expo ’70. Nihon Chinbotsu của Komatsu xuất bản năm 1973 là sản phẩm bán chạy nhất. Uchū Senkan Yamato (còn gọi là Space Battleship Yamato), một tác phẩm anime được đặt trong bối cảnh khoa học viễn tưởng đã được phát sóng, và Star Wars đã được chiếu ở Nhật Bản vào cuối những năm 1970. Sự thay đổi về bản chất của thể loại khoa học viễn tưởng ở Nhật Bản xuất phát từ những sự kiện này thường được gọi là “sự thẩm thấu và khuếch tán” (浸透と拡 Shintō to Kakusan).

Vào thời điểm này, sê-ri (伝奇SF, theo nghĩa đen là Denki SFKhoa học viễn tưởng thần thoại) của Hanmura và sê-ri Wolf Guy của Hirai trở thành nguyên bản của các light novel Nhật Bản sau này thông qua các tác phẩm của Kikuchi Hideyuki, Yumemakura Baku và Takachiho Haruka. Ngoài ra, các tạp chí khoa học viễn tưởng mới như Kisō Tengai (奇想 天), SF Adventure (SF ア ド ベ ン チ) và SF Hōseki (SF宝石) đã được thành lập. Một số tác giả đáng chú ý đã ra mắt trên Tạp chí SF hoặc một trong những ấn phẩm mới này: Hori Akira, Yokota Jun’ya, Tanaka Koji, Yamada Masaki, Kanbe Musashi, Noa Azusa, Kanbayashi Chōhei, Tani Kōshū, Ohara Mariko, Ko Hiura, Kusakami Hitoshi, Arai Motoko, Yumemakura Baku, Tanaka Yoshiki và Suga Hiroe.

Vào những năm 1980, khía cạnh nghe-nhìn của thể loại khoa học viễn tưởng Nhật Bản tiếp tục phát triển. Kaze no Tani no Naushika của Miyazaki Hayao (hay còn gọi là Nàng công chúa ở Thung lũng gió) và Urusei Yatsura II: Beautiful Dreamer của Oshi Mamoru lần đầu tiên được lên sóng. Trên truyền hình, loạt anime mecha, bắt đầu với Mobile Suit Gundam, đã được phát sóng, và nhóm nghệ sĩ khoa học viễn tưởng Studio Nue đã tham gia cùng các nhân viên của The Super Dimension Fortress Macross. Các họa sĩ diễn hoạt Anno Hideaki, Sadamoto Yoshiyuki, Akai Takami và Higuchi Shinji, những người đã thu hút sự chú ý bằng cách tạo ra các anime đã được triển lãm tại Daicon III và Daicon IV, thành lập Studio Gainax.

Thời kỳ suy thoái

Tạp chí văn học khoa học viễn tưởng bắt đầu biến mất vào cuối những năm 1980 khi sự chú ý của công chúng ngày càng chuyển sang phương tiện nghe nhìn. Cuộc thi khoa học viễn tưởng Hayakawa cũng đã bị ngừng khiến cho các nhà văn khoa học viễn tưởng bế tắc. Một số tác giả khoa học viễn tưởng và chính kịch không gian, bao gồm Nojiri Hosuke, Yamamoto Hiroshi, Kasamine Ryuji và Sasamoto Yuichi, bắt đầu viết ” light novel” bìa mềm lấy cảm hứng khoa học viễn tưởng và kỳ ảo, chủ yếu để phục vụ đối tượng thanh thiếu niên. Thời kỳ này, với sự đi xuống của dòng văn học khoa học viễn tưởng, nó đã được gắn mác là “Thời đại mùa đông” (冬の時代 Fuyu no Jidai). Trong dòng chính của khoa học viễn tưởng, Tanaka Yoshiki đã xuất bản Ginga Eiyu Densetsu.

Ranh giới giữa tiểu thuyết khoa học viễn tưởng và light novel đã bị xóa nhòa trong những năm 1990. Mặc dù sê-ri Seikai no Monshou của Morioka Hiroyuki được coi là nằm trong mạch thể loại light novel, sê-ri vẫn được Shobo Hayakawa xuất bản như một phần của dòng khoa học viễn tưởng chính thống. Mặt khác, các tác giả light novel như Sasamoto và Nojiri cũng đã xuất bản các tiểu thuyết khoa học viễn tưởng nặng.

Như một sự tiếp nối của tầm ảnh hưởng và lan rộng của khoa học viễn tưởng vào văn học chính thống, Ōe Kenzaburō, người sau này đã nhận được giải thưởng Nobel về văn học, đã viết hai tiểu thuyết khoa học viễn tưởng vào năm 1990-1991. Murakami Haruki đã nhận được Giải thưởng World Fantasy cho Kafka bên bờ biển năm 2006, và cuốn tiểu thuyết 1Q84 năm 2009 của ông là một tác phẩm bán chạy nhất.

Trong khi đó, trong lĩnh vực thị giác, sê-ri Gamera (1995, 1996, 1999) do Kaneko Shusuke đạo diễn với hiệu ứng hình ảnh của Higuchi Shinji, đã làm mới bộ phim thể loại kaiju. Một bộ phim truyền hình anime Shin Seiki Evangelion (1995-1996), do Anno Hideaki đạo diễn, đã nổi lên như một hiện tượng.

Những năm 2000

Những năm 2000 (thập kỷ) chứng kiến sự phục hồi trên thị trường cho dòng văn học khoa học viễn tưởng. Sách khoa học viễn tưởng có doanh số bán hàng vững chắc so với sự suy giảm chung của ngành xuất bản.[9] SFWJ và Tokuma Shoten bắt đầu cuộc thi Japan SF Budding Writer Award vào năm 1999, và Tokuma đã phát hành tạp chí hàng quý, SF Japan, vào năm 2000 (đã ngừng phát hành vào năm 2011). Hayakawa bắt đầu một thương hiệu mới, J Collection, vào năm 2002. Tập đoàn Kadokawa Haruki đã tiến hành cuộc thi Giải thưởng Komatsu Sakyō năm 2000 (chấm dứt năm 2009). Một sê-ri mới Year’s-Best anthology, do Ōmori Nozomi và Kusaka Sanzō biên tập, bắt đầu vào năm 2008 bởi Tōkyō Sōgensha, và từ đó, cuộc thi Giải thưởng Truyện ngắn Sogen SF đã bắt đầu vào năm 2010.

Trong số những người vào chung kết cho Giải thưởng Komatsu Sakyō và ra mắt từ (盤上の夜 J Collection, Itō Keikaku đã để lại ấn tượng mạnh mẽ trong sự nghiệp ngắn ngủi của ông trước khi chết vì căn bệnh ung thư vào năm 2009. Enjō Tō, xuyên suốt dòng văn học chính thống, đã được đề cử cho Giải thưởng Akutagawa, và cuối cùng đã giành được nó vào năm 2012. Miyauchi Yūsuke, người được tuyển chọn đặc biệt của Ban giám khảo cho Giải thưởng Truyện ngắn Sogen SF năm 2010, đã được đề cử cho Giải thưởng Naoki và giành giải Nihon SF Taisho vào năm 2012 cho tuyển tập đầu tay của mình, Dark Beyond the WeiqiBanjō no yoru ).

Hội nghị khoa học viễn tưởng thế giới lần thứ 65 đã được tổ chức với Nihon SF Taikai lần thứ 46 tại Yokohama, Nhật Bản, vào năm 2007.

Tiểu thể loại

Kamishibai

Tokusatsu có một số thể loại phụ:

đề cập đến các thể loại khoa học viễn tưởng tập trung vào các robot hoặc máy móc khổng lồ (mechs) do con người điều khiển. Tại Nhật Bản, mecha anime (còn được gọi là “robot anime” tại Nhật Bản) là một trong những thể loại lâu đời nhất trong anime.

Có hai thể loại chính của anime và manga mecha:

Siêu robot (ス ーsūpā robotto) – Một số mecha đầu tiên xuất hiện trong manga và anime là ‘siêu robot’. Thể loại siêu robot thường thể hiện các robot khổng lồ giống như siêu anh hùng thường là một trong những loại hình duy nhất và là sản phẩm của một nền văn minh cổ đại, người ngoài hành tinh hoặc một nhà khoa học điên. Những robot này thường được điều khiển bởi thanh thiếu niên Nhật Bản thông qua lệnh bằng giọng nói hoặc đường lên dây thần kinh và thường được cung cấp năng lượng từ các nguồn năng lượng thần bí hoặc kỳ lạ. Ví dụ như Mazinger Z (ra mắt năm 1972), Getter Robo (ra mắt năm 1974) và Gurren Lagann (2007).

Robot thực tế (リ ア トriaru robotto) – Thể loại ‘robot thực tế’ thường thể hiện các robot không có siêu năng lực thần thoại, mà sử dụng phần lớn các loại vũ khí và nguồn năng lượng tương lai, và thường được sãn xuất hàng loạt để phục vụ chiến tranh. Thể loại robot thực sự cũng có xu hướng làm nổi bật các nhân vật phức tạp hơn với các xung đột đạo đức và các vấn đề cá nhân. Do đó, thể loại này chủ yếu nhắm vào thanh thiếu niên thay vì trẻ em. Ví dụ như (ra mắt năm 1979), Macross (ra mắt năm 1983) và (ra mắt năm 2006).

Cyberpunk Nhật Bản có nguồn gốc từ văn hóa nhạc underground, đặc biệt là tiểu văn hóa punk Nhật Bản phát sinh từ nền âm nhạc punk Nhật Bản vào những năm 1970. Nhà làm phim Ishii Sogo đã giới thiệu văn hóa nhóm này cho điện ảnh Nhật Bản với các bộ phim punk Koko Dai Panikku (1978) và Kuruizaki Sandā Rōdo (1980), thể hiện bản chất nổi loạn và vô chính phủ có mối liên hệ với punk, và tiếp tục trở nên có ảnh hưởng lớn trong giới phim underground. Kuruizaki Sandā Rōdo nói riêng là một bộ phim thể loại tổ lái có tầm ảnh hưởng, sự thành công của thể loại này đã mở đường cho nhượng quyền thương mại cyberpunk có ảnh hưởng của Otomo Katsuhiro, Akira. Thể loại phụ cyberpunk Nhật Bản bắt đầu vào năm 1982 với sự ra mắt của bộ manga Akira, với bộ phim hoạt hình năm 1988 được chuyển thể sau đó đã phổ biến tiểu thể loại này. Akira đã truyền cảm hứng cho một làn sóng các tác phẩm cyberpunk của Nhật Bản, bao gồm các bộ manga và anime như Ghost in the Shell (1989), Battle Angel Alita (1990), Cowboy Bebop (1997) và Serial Experiment Lain (1998).

Steampunk Nhật Bản bao gồm manga steampunk và sản phẩm anime từ Nhật Bản. Các yếu tố steampunk liên tục xuất hiện trong truyện tranh chính thống từ những năm 1940, kể từ bộ ba tác phẩm khoa học viễn tưởng sử thi của Osamu Tezuka bao gồm Lost World – Zenseiki (1948), Metoroporisu (1949) và Kitarubeki Sekai (1951). Các yếu tố steampunk được tìm thấy trong manga cuối cùng đã được đưa vào các tác phẩm hoạt hình chính thống bắt đầu từ những năm 1970, bao gồm các chương trình truyền hình như Space Battleship Yamato (1974) của Matsumoto Leiji và bộ truyện tranh chuyển thể năm 1979 của bộ truyện tranh của tác giả Ikeda Riyoko, Versailles no Bara (1972). Nhà làm phim hoạt hình steampunk có ảnh hưởng nhất là Miyazaki Hayao, người đã tạo ra anime steampunk từ những năm 1970, bắt đầu với chương trình truyền hình Conan – Cậu bé tương lai (1978). Bộ manga Nàng công chúa của Thung lũng gió (1982) của ông và bộ phim chuyển thể từ bộ phim hoạt hình năm 1984 của nó cũng chứa các yếu tố steampunk. Sản xuất steampunk có ảnh hưởng nhất của Miyazaki là bộ phim hoạt hình Studio Ghibli, Laputa: Lâu đài trên không (1986), đã trở thành một cột mốc quan trọng trong thể loại này và đã được The Steampunk Bible mô tả là “một trong những tác phẩm kinh điển về steampunk hiện đại đầu tiên”. Thành công của Laputa đã truyền cảm hứng cho một làn sóng các tác phẩm steampunk của Nhật Bản, như Nadia: The Secret of Blue Water (1990), Kurenai no Buta (1992), Sakura Wars (1996), Fullmetal Alchemist – Cang giả kim thuật sư (2001), Lâu đài bay của pháp sư Howl (phim) (2004) và (2004).

Dieselpunk

Ví dụ về thể loại dieselpunk của Nhật Bản bao gồm manga Nàng công chúa của Thung lũng gió (1982) của Hayao Miyazaki và phim chuyển thể từ bộ phim hoạt hình năm 1984, bộ phim hoạt hình Laputa: Lâu đài trên không (1986) của Miyazaki và Studio Ghibli, và trò chơi nhập vai Nhật Bản của Squaresoft, Final Fantasy VII (1997).

Bạn đang đọc nội dung bài viết Học Số Đếm,Tuổi,Vật,Ngày Tháng Tiếng Nhật Tưởng Dễ Mà Dễ Không Tưởng trên website Maytinhlongthanh.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!