Đề Xuất 6/2023 # Đề Tài Một Vài Kinh Nghiệm Tạo Hứng Thú Học Tiếng Anh Cho Học Sinh Lớp 3 Người Dân Tộc # Top 9 Like | Maytinhlongthanh.com

Đề Xuất 6/2023 # Đề Tài Một Vài Kinh Nghiệm Tạo Hứng Thú Học Tiếng Anh Cho Học Sinh Lớp 3 Người Dân Tộc # Top 9 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Đề Tài Một Vài Kinh Nghiệm Tạo Hứng Thú Học Tiếng Anh Cho Học Sinh Lớp 3 Người Dân Tộc mới nhất trên website Maytinhlongthanh.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

* Thuận lợi: Hầu hết các em học sinh tại trường đều là người dân tộc Êđê ở khu vực xã Ea Bông, bản thân tôi cũng là một giáo viên Tiếng Anh người dân tộc Êđê, do đó hiểu được những trở ngại mà các em mắc phải khi giao tiếp bằng Tiếng Anh cũng như giao tiếp bằng Tiếng Việt là điều hiển nhiên. Khoảng cách giữa các trường Tiểu học trong địa bàn xã Ea Bông khá gần nên việc dự giờ, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp về chuyên môn, nội dung các trò chơi để vận dụng trong giờ dạy Tiếng Anh ở bậc tiểu học, cũng như cách thức tổ chức và tiến hành dạy thực nghiệm có phần dễ dàng và thuận tiện hơn rất nhiều. Nhận được sự quan tâm từ Phòng Giáo dục Huyện trong việc theo học bằng đạt chuẩn kĩ năng giao tiếp (B2) theo khung tham chiếu Châu Âu. Bên cạnh đó, giáo viên còn nhận được sự hỗ trợ từ phía nhà trường trong việc bố trí tiết dạy, tạo điều kiện bồi giỏi nâng yếu trong công tác nâng cao chất lượng dạy và học. Giáo viên Tiếng Anh được đào tạo trình độ cao(sau đại học). * Khó khăn Là trường có hơn 70% học sinh là dân tộc Êđê khá đông với học sinh người dân tộc Kinh, đa số các em nói Tiếng Việt chưa chuẩn, giao tiếp bằng Tiếng Việt còn hạn chế (sai thanh dấu). Việc dạy ngoại ngữ Tiếng Anh cho các em, theo qui định của Bộ triển khai từ lớp 3 thì lại trở thành một thách thức to lớn đối với một trường nằm trong vùng “cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc” như các em học sinh dân tộc Êđê tại trường Tiểu học Ea Bông hiện nay. Thêm vào đó, phòng học còn thiếu(chỉ dạy được 2tiết/ tuần), chưa đảm bảo số lượng theo yêu cầu, chưa có phòng Lab, phòng học chuyên dụng dành riêng cho môn Tiếng Anh, số lượng giáo viên Tiếng Anh chưa đủ đáp ứng yêu cầu dạy 4 tiết/ tuần theo chương trình của Bộ Giáo Dục. Từ đó dẫn đến việc thực hiện công tác dạy học Tiếng Anh còn hình thức, chưa có điều kiện giảng dạy chuyên sâu. Hầu như các cha mẹ và các em học sinh người dân tộc Êđê tại địa bàn trường đều chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc học Tiếng Anh, vẫn xem Tiếng Anh như là một môn phụ trong chương trình học, chưa chú trọng đầu tư , mua sắm sách vở phục vụ học Tiếng Anh cho con em mình. Đây chính là bước cản lớn nhất trong công tác dạy và học Tiếng Anh tại trường Tiểu học Ea Bông. Việc mua sắm trang thiết bị như máy tính, tài liệu ôn tập phục vụ hoạt động tự học Tiếng Anh tại gia đình của các em còn chưa được cha mẹ quan tâm đúng mức do đó kết quả thu được từ các kì thi IOE trên mạng còn thấp. 2.2. Thành công- hạn chế *Thành công Sáng tạo ra nhiều đồ dùng dạy học phù hợp với nội dung các tiết dạy làm cho tiết học của các em trở nên sinh động, có sức lôi cuốn và hiệu quả hơn. Nhiều em học sinh người dân tộc Êđê tại trường đã nghe và nhận biết giọng đọc, nói của người bản ngữ. Phần lớn các em đã mạnh dạn hơn trong việc thực hiện các bài tập cũng như các yêu cầu cơ bản trong tiết học. Các em đã bước đầu hình thành những kĩ năng, kĩ xảo trong việc áp dụng kiến thức vào tiết học. Việc giao tiếp và gần gũi với chính các em học sinh của mình đã tạo ra một mối quan hệ thầy – trò bền vững. *Hạn chế Với các em học sinh người dân tộc Êđê thì học Tiếng Anh trở thành là học một ngôn ngữ thứ ba (sau việc học Tiếng Việt). Thực tế, khi bước vào lớp 3, mặc dù Bộ Giáo Dục đã chú trọng chương trình tăng cường Tiếng Việt cho các em học sinh người dân tộc Êđê về khả năng nghe nói, giao tiếp nhưng các em vẫn gặp vô vàn khó khăn trong hoạt động học bởi vì suy cho cùng thì Tiếng Việt vẫn là ngôn ngữ thứ 2 sau Tiếng mẹ đẻ ( Tiếng Êđê). Không những hạn chế trong giao tiếp mà điều kiện học tập cũng còn quá nhiều thiếu thốn, nên việc học Tiếng Anh của học sinh ở trường Ea Bông lại càng khó khăn bội phần. Thêm vào đó, chương trình và SGK mới thay đổi liên tục, việc thiếu thốn trang thiết bị, hạn chế trong việc áp dụng phần mềm mới của giáo viên cũng gây rất nhiều trở ngại cho cả người dạy lẫn người học. Thời gian thực hiện đề tài còn hạn chế, tài liệu phục vụ cho đề tài chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Học Tiếng Anh đối với học sinh người dân tộc Êđê đã là ngôn ngữ thứ ba, môi trường sống của các em chỉ tiếp xúc với người Êđê là chủ yếu cho nên ít có cơ hội sử dụng cả Tiếng Việt lẫn Tiếng Anh. Điều này không chỉ vất vả cho giáo viên mà ngay chính bản thân các em cũng là một trở ngại lớn, do đó đòi hỏi giáo viên phải là người địa phương hoặc phải biết sử dụng Tiếng dân tộc Êđê trong giảng dạy cũng như giao tiếp. 2.3. Mặt mạnh – mặt yếu * Mặt mạnh Trường nằm tại trung tâm của Buôn Knul, đường sá đi lại rất dễ dàng, có em chỉ cần đi bộ trong thời gian ngắn để đến trường. Đây chính là điểm thuận lợi nhất cho Thầy và Trò trường Tiểu học Ea Bông. * Mặt yếu Mặc dù văn bản chỉ đạo yêu cầu thực hiện từ Bộ – Sở – Phòng rất đầy đủ nhưng trong quá trình thực hiện thì lại gặp rất nhiều trở ngại do khác nhau về mặt điều kiện kinh tế, trình độ chuyên môn cũng như nguồn nhân lực. Dẫn đến một kết quả, không những là không như mong đợi mà còn khập khiễng không theo văn bản ban hành. Đó cũng chính là lí do Bộ Giáo dục luôn phải cải cách cũng như thay đổi chương trình học Tiếng Anh cho các em học sinh. Nhiều em có ít cơ hội để tiếp cận với thông tin đại chúng, động cơ để học Tiếng Anh còn hạn chế. Một số em còn ngại nói Tiếng Anh, còn sợ bị mắc lỗi, hầu như các em học sinh chưa quen với việc nghe Tiếng Anh bằng giọng bản xứ trong băng đĩa. 2.4. Nguyên nhân, các yếu tố tác động Điều kiện, hoàn cảnh của nhân dân địa phương đa số vẫn còn nhiều khó khăn. Trình độ dân trí còn thấp hoặc không đều nên nhận thức về việc xã hội hóa giáo dục của họ còn rất hạn chế, đặc biệt là đối với bậc tiểu học. Trình độ giao tiếp Tiếng Anh cũng như kĩ năng áp dụng công nghệ thông tin vào quá trình giảng dạy Tiếng Anh còn hạn chế. Bên cạnh đó, nhận thức về giáo dục nói chung của đội ngũ giáo viên tại địa bàn đôi khi còn mơ hồ, chưa thấy rõ tầm quan trọng, chưa thể hỗ trợ hiệu quả vào giảng dạy Tiếng Anh chung trong trường, điều kiện cơ sở vật chất chưa đáp ứng nhu cầu của thời đại, các thiết bị giảng dạy phục vụ dạy – học còn thiếu về số lượng và chưa đảm bảo về chất lượng. Điều kiện về kinh tế, hoàn cảnh gia đình của đội ngũ cán bộ viên chức tại trường vẫn còn nhiều khó khăn. Về trình độ tay nghề của đội ngũ giáo viên chưa đồng đều, việc tiếp cận phương pháp dạy học mới của giáo viên chưa nhanh nhạy, chưa hiệu quả. Một bộ phận học sinh còn chưa chủ động, sáng tạo trong học tập theo phương pháp mới, còn tỏ ra nhút nhát thụ động ít chịu khó tìm tòi, độc lập suy nghĩ, sáng tạo. Tất cả điều đó đều làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng giảng dạy của nhà trường. 2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra Vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện hiện nay là một vấn đề nan giải mà Đảng, Nhà nước và toàn xã hội quan tâm. Nhà nước dùng một khoản lớn ngân sách cho giáo dục tuy nhiên việc nâng cao chất lượng giáo dục ở các trường gặp hàng rào cản lớn từ hệ thống quản lý bên trên và sức ỳ trong nhận thức cũng như hành động từ chính những người trong cuộc. Yếu tố quan trọng nhất trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Tiếng Anh cho các em học sinh người dân tộc Êđê là việc tăng cường trang bị cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học của nhà trường. Đây là yếu tố góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên từ đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Và một điều kiện cần có, không kém phần quan trọng trong công tác dạy và học tại trường Ea Bông là xây dựng một môi trường Sư phạm theo phương châm:” Trường học thân thiện, Học sinh tích cực ”. Chính yếu tố này góp phần cho giáo viên, học sinh hứng thú thích đến trường đến lớp, yêu trường, yêu lớp. Với phương pháp dạy học mới tích cực thì giáo viên đóng vai trò chủ đạo, học sinh là trung tâm của tiết học. 3. Giải pháp, biện pháp thực hiện đề tài 3.1.Mục tiêu Để tiến hành một tiết dạy có hiệu quả thì giáo viên cần thực hiện tốt các yêu cầu cơ bản sau: Nghiên cứu bài học, đối tượng học sinh, sau đó chọn và sử dụng linh hoạt các kĩ thuật dạy phù hợp với từng nội dung bài học. Trong quá trình tổ chức hoạt động học, giáo viên phải điều khiển lớp học, phân bố thời gian hợp lý. Quan trọng hơn cả, giáo viên cần đảm bảo sử dụng thành thạo các phương tiện, đồ dùng dạy học cũng như sáng tạo ra các đồ dùng phù hợp, hiệu quả cho tiết dạy. Đồng thời việc kết hợp giữa Gia đình – Nhà trường – Xã hội cũng là vấn đề lớn để nâng cao chất lượng giảng dạy nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung. Trong những năm gần đây, yêu cầu của giáo dục đòi hỏi phải có nhiều đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các môn và các cấp học, nhằm nâng cao chất lựơng dạy và học đặc biệt là ở bộ môn Tiếng Anh, muốn gây hứng thú học tập, phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên phải lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động học tập, tạo ra các trò chơi lồng ghép trong các tiết học, sử dụng ngôn ngữ thật lý thú và bổ ích phù hợp với nhận thức của các em để các em dễ dàng nắm bắt kiến thức cũng như nhớ bài học được lâu. 3.2. Nội dung và cách thức giải quyết Thực tế cho thấy, một giáo viên cho dù có kiến thức chuyên sâu, nhưng không có phương pháp dạy học tốt thì cũng sẽ không thu được hiệu quả cao. Bên cạnh đó, “Lòng yêu nghề, ý thức trách nhiệm của giáo viên”, tốt thì “không có việc gì khó” nữa. Lòng yêu nghề ở đây là lòng yêu công việc dạy học, coi việc dạy học là niềm vui, lúc nào cũng hứng thú dạy học, phấn đấu phục vụ nhiều cho công tác dạy học, luôn yêu mến học sinh và có trách nhiệm trong từng bài dạy. Để có một tiết dạy thật sự hứng thú, người giáo viên phải nghiên cứu trước bài dạy. Đây là một công việc không thể thiếu trong các khâu dạy học. Khi có đủ tài liệu thì phải nghiên cứu để định hướng công việc: cần dạy những gì, sử dụng những phương pháp nào, cách thức dạy học ra sao, cần sử dụng những đồ dùng dạy học cần thiết nào, ước lượng thời lượng tổ chức dạy học. Qua thực tế chứng minh: nếu bài dạy nào có sự đầu tư nghiên cứu kĩ thì kết quả mang lại là rất cao. Việc sử dụng các trò chơi trong giảng dạy ngoại ngữ, đặc biệt là trong phần Warm up ( phần mở đầu của mỗi tiết học) nhằm tạo cho học sinh có hứng thú trong học tập Tiếng Anh là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với giáo viên, quan trọng hơn nữa là người dạy phải biết vận dụng các trò chơi vào các tiết học một cách hiệu quả với phương châm: “học mà chơi, chơi mà học” nhưng vẫn đảm bảo được lượng kiến thức truyền đạt đến các em. Ví dụ như trò chơi Brainstorming: Việc này giúp học sinh nắm từ nhanh hơn thông qua việc tiếp xúc với tranh ảnh có nội dung gần gũi cũng như gắn liền với bài học. Dùng tranh cho học sinh nhìn tranh điền từ vào chỗ trống, nhìn tranh nghe đọc và ôn từ thông qua mẫu câu. Trong phần bài này, học sinh vừa quan sát tranh học từ vựng vừa thực hành được cấu trúc câu trong giao tiếp: There’s a garden. It’s very nice! Dùng tranh trong các phần liên hệ giáo dục ở phần cuối bài. Giả sử như phần bài này, chúng ta có thể giáo dục các em tôn trọng ngày lễ Tết của dân tộc mình, biết quý trọng ông bà, cha mẹ. Một số thủ thuật mà tôi đưa ra có thể sử dụng trong hầu hết tất cả các tiết học và các khối lớp ở bậc tiểu học. Tùy vào từng nội dung của bài học, giáo viên phải biết cách chọn lọc và tổ chức thực hiện các thủ thuật ấy một cách linh hoạt và có hiệu quả. Biện pháp 2: Sử dụng công nghệ thông tin, trang thiết bị, phần mềm hỗ trợ học Tiếng Anh. Phần mềm Hot Potatoes gồm có nhiều phần: JCloze: dùng tạo các bài tập với câu hỏi đa lựa chọn; JCross: tạo bài tập dùng trò chơi ô chữ; JMix: tạo câu hỏi sắp xếp các từ, cụm từ lộn xộn; JMatch: tạo bài tập gồm các câu hỏi kiểu so khớp.v.v. Đây cũng là một trong những phần mềm được nhiều giáo viên chú ý đến. Phần mềm phổ biến nhất hiện nay trong các trường chuẩn có dạy môn Tiếng Anh là Active Inspire ( hay còn gọi là Bài giảng tương tác hoặc Bảng thông minh). Nó không chỉ thu hút sự chú ý của các em học sinh mà còn giúp các em học sinh phát huy tối đa khả năng của bản thân trong giờ học. ActivInspire là nền tảng cho bất kỳ hoạt động học tập nào của thế kỷ 21. Được thiết kế để sử dụng trong lớp học, nó cho phép giáo viên giảng bài trên bảng trắng tương tác. Soạn bài giảng có nhiều hoạt động phong phú, hữu ích, và hỗ trợ các nhiệm vụ đánh giá học tập với học viên, các nhóm và toàn thể lớp học.      Với sự lựa chọn các giao diện phù hợp với lứa tuổi, ActivInspire mang lại cho giáo viên khả năng tiếp cận nhiều hoạt động giảng dạy, công cụ, hình ảnh, âm thanh và mẫu, với cả một thế giới các tài nguyên bổ sung có trên Promethean Planet. Đối với lứa tuổi học sinh tiểu học, sự tò mò và tính ham hiểu biết của các em rất lớn, để có được một tiết dạy hiệu quả thì giáo viên phải hiểu được tầm quan trọng của việc tổ chức, phân bố lớp học, truyền cảm, lôi cuốn học sinh trong giờ học. Chúng ta có thể thấy, hầu như trong mỗi bài học Tiếng Anh đều có một bài hát không chỉ để tạo sự hứng thú học cho các em mà thông qua đó các em có thể củng cố từ vựng cũng như cấu trúc câu đã học trong bài. Chúng ta phải hiểu thêm là, học sinh chỉ có được động cơ học tập khi các em cảm thấy hứng thú với môn học và thấy được sự tiến bộ của mình. Giáo viên cần tăng cường các bài dạy có lồng ghép âm nhạc để các em phát huy tối đa sự ham thích học của mình trong mỗi giờ học. Do vậy, ngoài khả năng tạo sự lôi cuốn học sinh trong những hoạt động trên lớp thì giáo viên còn phải khích lệ động viên trong việc học. Ngoài ra để tăng phần sinh động, giáo viên có thể sử dụng thêm một số bài hát có nội dung tương tự để thay đổi không khí học tập cho các em từ một số trang mạng như: https://alokiddy.com.vn/ Hoặc học các bài hát Tiếng Anh qua: https://www.tienganh123.com/tieng-anh-tre-em-qua-bai-hat. Biện pháp 4: Kết hợp sử dụng tam ngữ: Tiếng Êđê – Tiếng Anh – Tiếng Việt trong tiết dạy. Nhiều nhà giáo dục học nổi tiếng đã chứng minh thực tế là 60% chất lượng giờ dạy tốt là tùy thuộc vào khâu chuẩn bị soạn giáo án còn lại 40% là tùy thuộc vào năng lực sư phạm và kinh nghiệm của người Thầy. Vì vậy là giáo viên muốn giảng dạy tốt và chất lượng thì phải lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với nội dung và đối tượng, phát huy được tính chủ động sáng tạo, của người học. Bản thân tôi là một giáo viên Tiếng Anh (gốc là người Êđê), học sinh đa số cũng là người dân tộc Êđê cho nên vấn đề truyền tải kiến thức cho các em sẽ hiệu quả hơn nếu biết kết hợp linh hoạt giữa Tiếng Êđê với Tiếng Việt và Tiếng Anh. Giáo viên có thể dùng Tiếng Êđê để giải nghĩa thêm trong trường hợp giải thích bằng Tiếng Việt mà các em vẫn không hiểu, hoặc có thể dùng những câu chuyện cười của dân tộc Êđê để giải thích từ vựng, các em vừa học được từ vựng Tiếng Anh lại vừa biết thêm được câu chuyện hài của dân tộc mình, nó làm tăng mức độ, hiệu quả tiếp thu kiến thức thông qua đó sẽ làm cho các em hào hứng hơn trong việc học. Giáo viên còn có thể sử dụng những câu chào hỏi, giao tiếp bình thường như: Các em có khỏe không? Giáo viên nên sử dụng luôn Tiếng Êđê: Soaih sei mlei mơh he? – How are you? – Bạn có khỏe không? Nơng hruê anei? – What day is it today? – Hôm nay là thứ mấy? Đây là cái gì? – Nơ do anei? – What’s it? Ai đó? – Hlei pô anan? – Who’s that? Dạy từ vựng cũng sẽ đơn giản hơn nếu giáo viên lấy những từ vựng gần gũi với đời sống hàng ngày của các em đưa vào bài học. Ví dụ: Chúng ta có từ beef/bif/ – thịt bò, giáo viên có thể sử dụng từ “ip – con vịt hoặc Mao – Nấm trong Tiếng Êđê có sự tương đồng về âm với mouse /maos/ – Chuột để dạy các em cách phát âm trong Tiếng Anh để dạy các em nhớ từ bởi vì cách phát âm của hai từ này tương tự nhau nhưng chỉ khác nghĩa mà thôi. Hoặc khi dạy chữ cái Tiếng Anh, chữ cái đầu tiên trong bảng chữ cái là A /ei/ – Aê /ei/ – Ông, cách phát âm hoàn toàn giống nhau nhưng khác nghĩa mà thôi. Để giúp các em nhận thấy được sự tiến bộ trong học tập, giáo viên cần phải chú ý đến tính vừa sức trong dạy học, tránh không nên đưa ra yêu cầu quá cao đối với học sinh. Ngoài ra, giáo viên cần khuyến khích học sinh học theo phương châm thử nghiệm và chấp nhận mắc lỗi trong quá trình thực hành. Tăng cường nhận xét học sinh theo thông tư mới 22 của Bộ Giáo dục về đánh giá nhận xét học sinh bằng tam ngữ Anh – Việt – Êđê. Ví dụ: Kriăng kreh/alah alan – Chăm chỉ/lười biếng – Hard working/ Lazy. Thực tế cho thấy, có những học sinh biết nhưng không dám nói vì sợ mắc lỗi, một số em khác lại không dám phát biểu vì sợ thầy cô và các bạn cười chê. Theo tôi đây chính là yếu tố tâm lí mà giáo viên dạy ngoại ngữ cần phải xem xét để giúp các em có được hứng thú học tập hay ít ra là tích cực hơn trong giờ học. Mới bắt đầu làm quen với Tiếng Anh nên hầu như các em vẫn chưa nhớ từ lắm, giáo viên cần nói thường xuyên hơn với các em. Ví dụ như: Look – Nhìn – Dlang Listen – Nghe – Hmư Repeat – Lặp lại – m`a wit. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy: Để thiết lập, duy trì và tăng cường mối liên hệ của Gia đình – Nhà trường – Cộng đồng được tốt thì vai trò của Gia đình là vô cùng quan trọng. Các bậc cha mẹ cần chủ động xây dựng mối liên hệ và thường xuyên duy trì các mối liên lạc thì việc hỗ trợ con học tập và rèn luyện mới đạt hiệu quả. 3.3. Điều kiện thực hiện Mặc dù có những điều kiện khách quan và chủ quan ảnh hưởng trực tiếp trong quá trình giảng dạy nhưng giáo viên đã biết khắc phục, vượt lên khó khăn trước mắt, từng bước nâng cao chất lượng giờ dạy môn Tiếng Anh nhằm đáp ứng mục đích chương trình SGK mới. 3.4. Mối quan hệ giữa biện pháp, giải pháp của đề tài Thông qua việc chuẩn bị giáo án cho tiết học, để chất lượng bài giảng tốt ngoài những phần chuẩn bị đã trình bày trên, giáo viên còn phải chuẩn bị các phương tiện – thiết bị dạy học. Đây là khâu chuẩn bị cần thiết trong khi tiến hành giảng dạy ở các trường phổ thông. Có đồ dùng dạy học hoặc ứng dụng CNTT, những thí nghiệm ảo mà thực nghiệm không làm được trong tiết học là vô cùng cần thiết để minh họa chính xác cho nội dung bài giảng làm cho học sinh dễ khắc sâu kiến thức hơn. Giáo viên và học sinh càng gần gũi thì việc chia sẻ những trở ngại trong việc học của các em sẽ không còn là vấn đề hay khoảng cách đối với thầy và trò nữa, không những vậy các em sẽ cảm thấy thực sự thoải mái trong việc học, mạnh dạn hơn trong việc tiếp thu Tiếng Anh – một bộ môn ngoại ngữ mà bất kì em học sinh nào cũng cảm thấy dè dặt trong việc nắm bắt. 4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu 4.1. Đối với giáo

Một Vài Kinh Nghiệm Dạy Từ Vựng Tiếng Anh Cho Học Sinh Lớp 9

ĐỀ TÀI: MỘT VÀI KINH NGHIỆM DẠY TỪ VỰNG TIẾNG ANH CHO HỌC SINH LỚP 9 I.Đặt vấn đề 1. Cơ sở lý luận: Tiếng Anh là một ngôn ngữ thông dụng trên quốc tế và nó đã được đưa vào chương trình giảng dạy, trở thành một trong những bộ môn chính khoá ở các bậc học phổ thông. Để dạy tốt môn Tiếng Anh, mỗi một giáo viên đứng lớp luôn phải thực hiện tốt công tác bồi dưỡng và tự bồi dưỡng thường xuyên, nghiên cứu, vận dụng các phương pháp dạy học tích cực, khoa học và phù hợp với từng đối tượng học sinh. Xuất phát từ mục tiêu của giáo dục hiện nay đang tập trung hướng vào việc phát triển tính năng động, sáng tạo, tích cực của học sinh trong hoạt động học tập nhằm tạo khả năng nhận biết và giải quyết vấn đề cho học sinh. Cốt lõi của việc đổi mới phương pháp dạy học(PPDH) ở trường THCS là giúp học sinh hướng tới việc học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. Dạy học ngoại ngữ thực chất là hoạt động rèn luyện năng lực giao tiếp dưới các dạng nghe, nói, đọc, viết. Muốn rèn luyện năng lực giao tiếp cần có môi trường với những tình huống đa dạng của cuộc sống. Môi trường này chủ yếu do giáo viên tạo ra dưới dạng những tình huống giao tiếp và học sinh phải tìm cách ứng xử bằng ngoại ngữ cho phù hợp với tình huống giao tiếp cụ thể. Mục đích cuối cùng của việc học ngoại ngữ là giao tiếp. Để giao tiếp tốt trước hết đòi hỏi ở học sinh có vốn từ vựng nhất định, vốn từ vựng càng nhiều giúp học sinh càng hiểu ngôn ngữ giao tiếp nhanh chống và có hiệu quả. Với mục đích dạy tốt môn Tiếng Anh trong thời gian đã hơn10 năm đứng lớp và giúp cho học sinh khắc phục được những khó khăn trong việc học từ mới và học từ mới có hiệu quả. Tôi đã cố gắng tìm tòi, nghiên cứu các tài liệu viết về phương pháp cộng với những trải nghiệm trong quá trình giảng dạy. Tôi đã rút ra được một vài kinh nghiệm trong việc gây hứng thú cho học sinh học Tiếng Anh qua các giờ dạy từ vựng lớp 9. Đây là kinh nghiệm mà tôi tâm đắc nhất và tôi đã mạnh dạn chọn nó để làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm cho mình. Khi thực hiện đề tài này tụi đó sử dụng cỏc phương phỏp sau: 1/ Phương pháp nghiên cứu tài liệu. 2/ Phương pháp thực nghiệm 3/ Phương pháp tổng kết qua kinh nghiệm công tác và giảng dạy. Trong quá trình giảng dạy và nghiên cứu đề tài này tôi đã gặp phải một số khó khăn và thuận lợi sau: 2. Cơ sở thực tiễn: Điều kiện trang thiết bị phục vụ cho việc dạy học bộ môn Tiếng Anh khá đầy đủ như: đèn chiếu, đài catset, băng hình, tranh ảnh và thậm chí những năm gần đây trường chúng tôi đã thực hiện việc dạy học bằng giáo án điện tử. Vì thế chất lượng dạy học bộ môn ngày càng được nâng cao rõ rệt. Bản thân luôn được sự quan tâm, giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, của các anh chị em đồng nghiêp và đặc biệt là các anh chị em trong tổ chuyên môn. Phần lớn học sinh rất hứng thú và và chỳ ý say mờ trong học tập Bờn cạnh đú một số cá biệt học sinh vẫn còn thiếu kiên nhẫn trong học tập, còn chây lười, ỷ lại và mang tính thụ động. Đại đa số học sinh là con em nông dân nên điều kiện tiếp xúc với phương tiện thông tin còn hạn chế. * Để thực hiện phương pháp thực nghiệm tôi đã tiến hành khảo sát vốn từ vựng bộ môn Tiếng Anh đầu năm đối với lớp 9 như sau: - Số học sinh nói đúng: 50% - Số học sinh viết đúng: 35% Học sinh đạt yêu cầu về nghe, nói, đọc, viết: 50% - Học sinh hứng thú học từ: 45% - Một số học sinh còn rụt rè trong giao tiếp, vốn từ vựng và cách nhớ từ còn hạn chế. Một số học sinh chỉ nói theo chứ không viết đúng, học còn trầm, chậm. Trước tình hình đó tôi đã tìm giải pháp tốt nhất để giúp các em chủ động nhớ từ, vận dụng từ và hứng thú học từ qua giờ dạy có từ vựng. II. CÁC BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH: 1.Các bước để giới thiệu từ mới: Bước 1: Thâm nhập nắm chắc chương trình môn Tiếng Anh lớp 9, nghiên cưú kỹ nội dung từng bài để có kế hoạch làm đồ dùng cho giờ dạy sôi động, hấp dẫn và lôi cuốn. Bước 2: Phối hợp với học sinh và duy trì ngôn ngữ giao tiếp với học sinh bằng cách đặt câu hỏi học sinh trả lời. Bước 3: Lựa chọn và phân loại từ: từ chủ động hay từ bị động. Bước 4: Sử dụng các thủ thuật linh hoạt để giới thiệu nghĩa của từ. Bước 5: Kiểm tra việc hiểu và nắm nghĩa của từ. Bước 6: Luyện tập từ của học sinh. Bước 7: Kiểm tra mức độ hiểu biết và nắm được từ của một số học sinh yếu nếu cần thiết. 2. Các phương pháp để giới thiệu nghĩa của từ vựng: Realia, picture, mime, translation, explanation, synonym, antonym,... a. Lựa chọn từ để dạy: Thông thường trong một bài học sẽ luôn luôn có từ mới. Song không phải từ mới nào cũng cần đưa vào dạy như nhau. Lựa chọn từ để dạy tôi cần xem xét từ chủ động hay bị động? Trước khi dạy tôi phải đọc bài và nghiên cứu kỷ để tìm từ chủ động và thụ động. - Từ bị động(passive/ receptive vocabulary) là những từ học sinh chỉ hiểu và nhận biết được khi nghe và đọc, ít sử dụng và kém nhu cầu giao tiếp. Tôi xác định sẽ dạy từ nào như một từ bị động và từ nào như một từ chủ động. Với từ bị động tôi có thể khuyến khích học sinh tự tìm hiểu nghĩa của từ (ví dụ: tra từ điển, hoặc đoán từ qua ngữ cảnh). Eg: Dạy bài 5 (lesson 1) tôi đã chọn các từ chủ động: a crier , a viewer, channel, remote control, Từ để đoán: interactive, convenient, widely, wonderful Từ được chia làm 2 loại: Từ nội dung(content words) và từ chức năng(function words). Từ nội dung là những từ biểu thị người, vật, hiện tượng, tính chất,.... nó có nghĩa khi từ được đứng độc lập. Thường là các loại từ như danh từ, tính từ, động từ. Ex: a teacher, a poet, baggy, intermediate, (to) do Từ chức năng là những từ có ít nghĩa khi nó đứng một mình, nó biểu thị một mối quan hệ ngữ pháp ngay trong một câu hay giữa các câu, nên ta gọi là nghĩa về ngữ pháp(grammatical meaning). Các loại từ như liên từ, giới từ, mạo từ.... thường được gọi là chức năng. Ngoài ra từ còn có nghĩa đen (denotation) và nghĩa bóng (connotation). Với sự đa dạng của từ, tôi đã đầu tư trong việc lựa chọn từ thích hợp, có vai trò chủ động để hiểu được nội dung chính của bài học. Vì thế trong mỗi tiết dạy tôi chỉ cho các em 5-8 từ chủ động, vì thực tế có bài có đến 10-15-20 từ mới, nếu đưa ra quá nhiều học sinh sẽ không nhớ nỗi. b. Các hình thức để giới thiệu từ vựng. Có nhiều phương pháp giới thiệu từ vựng nhưng giới thiệu bằng cách nào cho phù hợp với từ, với đối tượng để học sinh dễ nhận biết và phát huy được tính tích cực ,tìm tòi, đoán nghĩa của học sinh. - Dùng tranh ảnh hay đồ vật cụ thể (visual realia). Khi dạy những từ cụ thể tôi đã mang những vật thực để giới thiệu. Eg: Dạy bài 5 có những từ cầm đồ vật thật như: remote control, magazine. Dạy bài 7 có những từ cầm đồ vật thật như: water bill, crack,...và các bài khác như: comic, bill, bulb, flashlight, doll,.... - Khi dạy những từ cần hình ảnh , tôi đã dùng tranh để giới thiệu. Dạy bài 2 có những từ dùng tranh như: a plainsuit, a plaid skirt, a striped shirt, faded jeans, baggy pants,... Dạy bài 6 có những từ dùng tranh như: garbage dump, air pollution, dynamite fishing, deforestation spraying pesticides,... Dạy bài 9 có những từ dùng tranh như: snow storm, earthquake, typhoon, tornadoes, thunder storm,. .. Có những hình ảnh đơn giản tôi có thể vẽ hình que lên bảng. Eg: bamboo forest, river bank, faucet, funnel shaped, brucket, ladder, leak,..... Bằng hình thức này tôi đã tạo cho học sinh những tình huống sinh động nhưng dễ hiểu. Học sinh thích thú và khá sôi nỗi. Nhiều em còn tranh nhau để đoán từ, thậm chí có những em yếu như em , Thuý, Hoỏ, H. Dũng, ... và thường tôi gọi những em yếu để cho các em có cơ hội và mạnh dạn hơn trong học tập. - Dùng cử chỉ, điệu bộ để giới thiệu(mime, body, gestures and actions). Eg: (to)pray, (to)lay out, (to)swap , (to)hug, (to) turn up, (to) throw, (to) decorate,.... Sử dụng hình thức này tôi đã thể hiện rõ ràng, tự nhiên giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhận biết và rất hứng thú học. ã Sử dụng từ đồng nghĩa(synonym) và từ trái nghĩa(antonym) Một phần giúp học sinh liên tưởng đến những từ đã học, vừa nắm được nghĩa của từ mới. Eg: "enormous" ạ "great/ huge", (to) live apart ạ live together, (to) reduce ạ (to) increase, (to) disappear ạ (to) appear,... (to) capture = (to) catch, extensive = large/ wide (adj), (to) occur = happen, remote =distant (adj),the shore = the beach ã Sử dụng tình huống(situation) hay giảng giải (explanation). Eg: (to) keep in touch. Although my friend lives in HCM City, I often hear about her health, study. We...(unit 1) (to) correspond (Unit 1). They usually write letter to each chúng tôi usually... - a poet (unit 2) - To Huu is a famous.... - banyan tree: Uncle Ho planted a............ in Tan Trao. - an examiner : In an exam, teachers are called ....... - ethnic minorities (unit2) Thai, Muong, Dao,... are... - a blanket. It makes us warm at night. Ngoài ra tôi còn sử dụng tình huống giảng giải, dạy từ trong ngữ cảnh, giải thích từ bằng những Tiếng Anh đơn giản, nhiều em rất tích cực trong việc đoán từ. Đối với những từ trừu tượng tôi dùng phương pháp dịch thuật như khi dạy bài 4 (B). Eg: shrine, mosque, interactive, a dripping faucet, freedom choice, (to) warn, edition,..... Tómlại: Các hình thức giới thiệu từ đa dạng nhưng tuỳ vào tình hình thực tế đối tượng học sinh và vào từng từ cụ thể mà giáo viên lựa chọn hình thức phù hợp để đạt được hiệu quả cao. 3. Các bước trình bày một từ mới: - Âm thanh và ngữ nghĩa: Kỹ năng nghe hiểu phải đươc đặt lên trước kỹ năng viết. Vì thế trước hết tôi đã gợi ý để học sinh nêu ra được từ mới. Học sinh nghe tôi đọc cách phát âm của từ (2-3 lần). Sau đó tôi yêu cầu học sinh nhắc lại đồng thanh, cá nhân. Tôi ghi từ lên bảng (những từ có 2 âm tiết tôi đánh rõ trọng âm). - Khi học sinh ghi được từ vào vỡ tôi đã dùng nhiều biện pháp để kiểm tra từ. Các hình thức trò chơi theo nhóm đã thực sự tạo hứng thú học tập cho học sinh. + Rub out and remember: Hình thức này đã thực sự giúp học sinh nhớ từ ngay tại lớp. + Slap the BB: Hình thức này đã giúp học sinh nhận ra từ vựng qua nghe hiểu và kiểm tra việc hiểu nghĩa từ của học sinh. Học sinh làm việ theo nhóm. Nhóm nào cũng muốn chiến thắng vì vậy các em hoạt động rất nhanh nhẹn và sôi nỗi. + What and Where: Tôi đã gợi ý để học sinh đưa ra được từ vựng rồi viết chúng vào các vòng tròn lên bảng, lần lượt (đọc-xoá-đọc) và tôi yêu cầu học sinh phải nhớ được từ và vị trí của nó để lên viết lại. Thoạt đầu một số em yếu còn nhút nhát nhưng dần về sau nhiều em đã rất mạnh dạn và muốn lên bảng để viết. Hình thức này đã giúp học sinh ghi nhớ và ôn luyện từ bằng cách viết từ + Matching words: Tôi yêu cầu học sinh nối nghĩa tiếng Việt với tiếng Anh hoặc với tranh. Phương pháp này tiết kiệm được thời gian và học sinh rất hào hứng làm việc, 90% học sinh xung phong lên bảng để nối, kể cả những em rất yếu. Eg: Unit 2 - lesson 4 (on the poster): go met have told be gone buy had give been learn bought teach given know taught tell known meet learnt ... ... + Guessing pictures (đoán tranh): Phương pháp này đã giúp nhiều học sinh cúng nói và luyện từ mới một cách có ý nghĩa. + Bingo: Bằng cách này tôi đã giúp học sinh luyện tập được kỹ năng nghe và nối âm thanh nghe được với từ đúng. Học sinh thực hành rất sôi nỗi. Thậm chí học sinh còn đề nghị giáo viên cho làm lại để quyết giành chiến thắng. + Finding friends (tìm bạn): Dưới hình thức này tôi đã giúp các em kết hợp được cách dùng của từ với một cụm từ khác. Giúp các em phân biệt được nghĩa của từ trong những tình huống khác nhau. Eg: Khi dạy unit 2 để nhớ tên các loại áo quần tôi đã yêu cầu các em đánh dấu (V) vào những ô theo hàng ngang . Clothes Jeans Colorful T- Shirt a plaid skirt school uniform plain suit blue shorts Casual V favorite special occasions V Bằng cách này học sinh đã dùng đúng từ, tránh được sự kết hợp sai , học sinh đã áp dụng đúng trên 80%. + Noughts and croses: Tôi đã dùng hình thức này để kiểm tra việc vận dụng từ mới trong câu và thực sự gây hứng thú học tập cho học sinh và đạt hiệu quả cao về học tập từ. + Jumbled words: Bằng cách kiểm tra này tôi đã giúp học sinh luyện tập viết đúng chính tả của từ. Học sinh phải sắp xếp được các chữ cái lộn xộn thành một từ có nghĩa. Ngoài những hình thức kiểm tra từ trên tôi còn tổ chức cho các em nhiều trò chơi khác nhau để rèn luyện kỹ năng viết và sử dụng từ, vừa tăng thêm sự hứng thú trong học tập cho các em. Eg: Trong các bài ôn tập tôi thường kiểm tra từ bằng trò chơi(lucky number). Mỗi học sinh tự chọn số của mình theo nhóm và đặt được câu với từ hoặc giải thích nghĩa từ theo yêu cầu của giáo viên. Hoặc tôi cho học sinh thi nhau viết từ bằng các cách sau: ã Viết từ bắt đầu bằng chữ cái cuối (theo nhóm) ã Viết tiếp chữ cái để tạo thành một từ có nghĩa, ai kết thúc được sớm là người đó thắng cuộc. Hoặc tôi vận dụng trò chơi(wordsquare, network, wordstorming, ...) Eg: Unit 12 - lesson 1: "network" activities of entertainment Học sinh làm việc theo nhóm watching TV listening to music Với các hình thức này đã thực sự đem đến hiệu quả cao cho các em trong việc nhớ từ và vận dụng từ. * Trong quá trình hướng dẫn học sinh học từ, nhớ từ và vận dụng từ tôi luôn theo dõi thái độ và kết quả của học sinh để có sự điều chỉnh bổ sung cho việc nâng cao giờ dạy từ vựng. Tôi thường đưa bài tập luyện từ từ dễ đến khó để nâng cao dần trình độ và kỹ năng sử dụng từ cho các em(đặc biệt là đối tượng khá, giỏi). Tôi thường cho các em bài tập điền từ vào chổ trống sau khi đã kiểm tra từ hoặc để rèn luyện thêm kỹ năng nghe tôi đã cho các em bài tập(ordering) sắp xếp từ theo đúng trật tự. Một số học sinh khá, giỏi đã thể hiện năng lực, trí tuệ của mình và các em làm việc rất tích cực, chủ động. III.KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC: Sau một thời gian vận dụng các kỷ thuật dạy từ vào bài học: Khảo sát về kỷ năng vận dụng từ, kết quả như sau: - Nói đúng: 85% (hơn 35% so với trước) - Viết đúng 75% (hơn 30% so với trước) - Học sinh đạt yêu cầu về nghe, nói, đọc, viết: 90% (hơn 40% só với trước). - Học sinh hứng thú học từ 100% (hơn 55% so với trước). Qua thể hiện đề tài đã làm , tôi nghĩ rằng giáo viên cần đi sâu nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo trong việc sử dụng phương pháp và hình thức dạy từ một cách linh hoạt mới nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Tiếng Anh trong nhà trường THCS. IV. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM: Từ những điều rút ra từ thực tế, phải nói rằng việc dạy và học từ vựng trong Tiếng Anh là bước đi rất quan trọng nối liền giữa việc học từ vựng ban đầu đến cái đích phát triển các kỹ năng, kỹ xảo. 1.Muốn nâng cao hiệu quả giờ dạy từ, gây hứng thú học bộ môn Tiếng Anh cho học sinh lớp 9 nói riêng, học sinh THCS nói chung giáo viên cần nắm chắc chương trình, nghiên cứu kỹ bài dạy: Lựa chọn từ thích hợp, chủ động để học sinh hiểu được nội dung bài hay phục vụ mục đích giao tiếp. 2. Căn cứ vào từ loại, nghĩa của từ, đối tượng học sinh để chọn phương pháp trình bày hợp lý, dễ hiểu và có hiệu quả. 3. Sử dụng hình thức kiểm tra, luyện tập từ phù hợp với bài học, đối tượng và thời gian. Giáo viên cần sáng tạo trong việc ra các dạng bài tập, luyện tập phong phú để huy động được toàn bộ học sinh phát huy được tính tích cực, chủ động. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà chu đáo, hướng dẫn học sinh biết tự học(tự tra từ, đoán từ ở nhà). 4. Quá trình giảng dạy giáo viên cần có thái độ nhẹ nhàng, động viên khuyến khích học sinh học tập. 5. Hoạt động của thầy và trò trong từng tiết học cần phải theo hướng đổi mới: Thầy tổ chức, hướng dẫn học sinh nắm bắt những kiến thức mới, trò lắng nghe để nhận nhiệm vụ, thực hiện hoạt động một cách tích cực và sáng tạo. Giáo viên cần thường xuyên vận dụng các kỷ thuật dạy học vào tiết dạy để giúp học sinh có cơ hội luyện tập từ nhiều hơn. Giáo viên cũng cần rút kinh nghiệm sau mỗi buổi dạy để thực hiện giờ lên lớp sáng tạo hơn, giúp học sinh học tốt hơn. V.NHỮNG ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ: Tụi kớnh đề nghị ngành GD- Đồng Hới nờn tổ chức thường xuyờn cỏc buổi chuyờn đề cụm để giỏo viờn cú cơ hội trau dồi và học hỏi thờm nhiều kinh nghiệm từ đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn! Đồng Hới, ngày 03 tháng 3 năm 2011 Người trình bày Võ Thị Hồng Lĩnh HĐKH TRƯỜNG THCS BẮC NGHĨA HĐKH NGÀNH GD- ĐT ĐỒNG HỚI

Đề Tài Một Số Biện Pháp Tăng Cường Tiếng Việt Cho Học Sinh Dân Tộc Thiểu Số

Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm phối hợp chặt chẽ với giáo viên bộ môn để tăng cường tiếng Việt cho học sinh trong tất cả các môn học (giáo viên chủ nhiệm lập danh sách những học sinh cần tăng cường tiếng Việt cho giáo viên bộ môn, giáo viên bộ môn dành thời gian trong mỗi tiết học để tăng cường tiếng Việt cho học sinh).

– Riêng khối lớp một, chỉ đạo giáo viên thực hiện phương án tăng thời lượng tiếng Việt từ 350 tiết lên 500 tiết (3 tiết/ bài) đối với chương trình hiện hành ( trong những năm học trước và năm học 2016-2017).

Bên cạnh việc thực hiện tăng cường tiếng Việt cho học sinh trong tất cả các môn học, việc tổ chức dạy học môn Tiếng Êđê cho học sinh dân tộc thiểu số trong nhà trường cũng rất cần thiết. Học tiếng mẹ đẻ không chỉ giúp học sinh biết giữ gìn những bản sắc văn hóa riêng, chữ viết của dân tộc mình mà còn hỗ trợ đắc lực cho các em trong việc học tập các môn học khác, đặc biệt là môn tiếng Việt.

Để giúp giáo viên thực hiện hiệu quả các biện pháp tăng cường tiếng Việt trong các môn học, lãnh đạo nhà trường phải thực sự đồng hành cùng giáo viên. Thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, dự giờ thăm lớp, lãnh đạo nhà trường góp ý, chia sẻ và cùng giáo viên tháo gỡ những khó khăn trong quá trình thực hiện.

Bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn về công tác tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số là một trong những khâu quan trọng giúp giáo viên thực hiện hiệu quả các biện pháp tăng cường tiếng Việt cho học sinh. Thông qua các hình thức sinh hoạt chuyên môn, nhà trường chú trọng bồi dưỡng cho giáo viên một số vấn đề cơ bản sau: – Bản chất của tăng cường tiếng Việt là giúp học sinh chưa biết hoặc biết nói ít tiếng Việt có thể học tập các môn học trong hệ thống giáo dục sử dụng tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức. Tăng cường tiếng Việt không có nghĩa là tăng thêm lượng kiến thức mà chúng ta có thể giảm bớt hay nói cách khác là điều chỉnh lượng kiến thức làm cho nó dễ hiểu hơn, phù hợp hơn với đối tượng học sinh. – Tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số có vai trò quan quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục học sinh. Bởi vì, đối với học sinh dân tộc thiểu số tiếng Việt là ngôn ngữ thứ 2. Học sinh học bằng ngôn ngữ 1 (NN1) so với ngôn ngữ 2 (NN2) có sự khác biệt, cụ thể: + Học sinh học bằng NN1 có vốn tiếng Việt khoảng 4000 từ (trước khi đi học), tư duy trực tiếp bằng TV (tiếp cận TV tự nhiên), tiếp thu ngôn ngữ hiệu quả từ nghe – nói – đọc – viết và có tác động tích cực của gia đình, cộng đồng. + Học sinh học bằng NN2 thường không biết hoặc biết ít tiếng Việt, tư duy gián tiếp (tiếp cận tiếng Việt áp đặt), tiếp thu tiếng Việt hạn chế do không hình thành ngay được mối liên hệ giữa âm thanh và chữ viết, giữa âm thanh và ngữ nghĩa – ngữ pháp. Các em ít nhận được tác động từ môi trường gia đình, cộng đồng và chịu sự ảnh hưởng tiêu cực của tiếng mẹ đẻ. – Khi thực hiện tăng cường tiếng Việt cho học sinh, giáo viên cần giúp các em tiếp cận với kiến thức, kĩ năng các môn học thông qua kinh nghiệm mà các em trích lũy được trước đó (có thể bằng tiếng mẹ đẻ), theo mức độ từ dễ đến khó. Chú ý đến học sinh, đến cuộc sống và môi trường học tập của các em, tạo điều kiện để học sinh được học tập theo đặc điểm cá nhân. Vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học khác nhau nhằm lôi cuốn học sinh tham gia tích cực vào các hoạt động học tập. Sử dụng đồ dùng học tập đa dạng, thường xuyên trong các hoạt động học tập. Hiểu được sự khác biệt giữa học sinh kinh và học sinh dân tộc thiểu số khi học tiếng việt sẽ giúp giáo viên lựa chọn được những phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh dân tộc thiểu số ở địa phương; tạo điều kiện thuận lợi để giúp học sinh học bằng NN2 lấp được chỗ trống về sự chênh lệch khoảng 4000 từ (trước khi đến trường). b.2. Thực hiện hiệu quả công tác Chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ trước tuổi đến trường Chuẩn bị tiếng Việt là bước đầu của tăng cường tiếng Việt. Chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trước khi học lớp một giúp các em có thể nghe hiểu một số câu, từ ngữ để giao tiếp với giáo viên, bạn bè; nhận diện được các chữ cái tiếng Việt, biết cách cầm bút, tư thế ngồi viết, thuộc một số bài hát, các nề nếp học tập…; có tâm thế sẵn sàng đi học, học các môn học và thực hiện các hoạt động giáo dục. Công tác chuẩn bị tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số thường được tổ chức trong dịp hè, trong khoảng thời gian một tháng vào trước năm học. Để thực hiện hiệu quả công tác này, trước hết, lãnh đạo nhà trường cần xây dựng kế hoạch Chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trước khi học lớp một; phân công nhiệm vụ cụ thể và triển khai kế hoạch kịp thời đến từng giáo viên trong trường; phối hợp tốt với thôn buôn và cha mẹ học sinh điều tra vận động học ra lớp. Chương trình học được thực hiện theo chương trình “Tập nói tiếng Việt cho học sinh dân tộc” theo tài liệu “Kế hoạch bài học Chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ em trước tuổi đến trường” của Bộ (tài liệu được cấp phát cho giáo viên tập huấn hè 2008), gồm 60 bài, 180 tiết. Căn cứ vào đối tượng HS cụ thể của từng lớp, lãnh đạo nhà trường chỉ đạo giáo viên lựa chọn một số nội dung ở tài liệu (phù hợp với đối tượng) để dạy cho trẻ. Ví dụ: – Căn cứ vào tình hình thực tế của đơn vị, giáo viên lựa chọn số lượng, thời lượng bài dạy cụ thể trong thời gian một tháng như sau: Tổng số bài dạy là 30 bài, mỗi bài học trong 03 tiết, mỗi tiết khoảng 30 phút, sau mỗi tiết học có 05 phút chuyển tiết, giữa mỗi buổi học có 15 phút để vui chơi. – Trong mỗi tiết học, ngoài thời gian tập nói, giáo viên dành từ 15 đến 20 phút để hướng dẫn học sinh tập nhận diện các chữ cái từ dễ đến khó, tập tô, tập viết các âm vần. Để đạt hiệu quả tốt, giáo viên cần tăng cường việc sử dụng đồ dùng dạy học (các thiết bị dạy học, tranh ảnh trực quan, đồ dùng dạy học tự làm…), tuyệt đối tránh dạy chay, hình thức. Cuối đợt học, giáo viên tổ chức khảo sát với từng học sinh để có kế hoạch phụ đạo, bồi dưỡng trong năm học. Đa số học sinh tham gia học tập là học sinh dân tộc thiểu số có hoàn cảnh gia đình khó khăn nên không thể vận động các em đóng góp để chi trả tiền bồi dưỡng cho giáo viên. Vì vậy, nhà trường có thể trích nguồn kinh phí chi thường xuyên của đơn vị để động viên, bồi dưỡng cho giáo viên trực tiếp giảng dạy. b.3. Tăng cường tiếng Việt trong các môn học Như chúng ta đã biết, trong điều kiện thực hiện một chương trình và một bộ sách giáo khoa, dù dạy học các môn học, bài học bằng tiếng Vệt cho học sinh Kinh hay học sinh dân tộc thiểu số thì giáo viên đều phải bám sát một chuẩn chung quốc gia về kiến thức và kĩ năng của các môn học. Để đáp ứng chuẩn này, khi dạy học các môn học cho học sinh dân tộc thiểu số, giáo viên cần tiến hành một số biện pháp tăng cường tiếng Việt nhằm giúp học sinh học bằng tiếng Việt có hiệu quả. – Chỉ đạo giáo viên chủ động điều chỉnh nội dung, thời lượng dạy học các môn học khác để tập trung vào dạy môn Tiếng Việt, Toán. – Thực hiện dạy học phân hóa đối tượng học sinh như: phân hóa theo sở thích, khả năng tiếp thu, đặc điểm cá nhân của học sinh,… – Sử dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học; tăng cường tổ chức dạy học theo nhóm, trò chơi học tập; sử dụng đồ dùng dạy học thường xuyên, có hiệu quả; khuyến khích sử dụng các trò chơi học tập để tăng cường tiếng Việt và yêu thích tiếng Việt cho học sinh. – Tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích giáo viên tự học tiếng mẹ đẻ của học sinh để giúp các em vượt qua rào cản ngôn ngữ (có thể sử dụng song ngữ để giải nghĩa từ,) – Sử dụng hiệu quả đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh “Tài liệu bổ trợ tiếng Việt 1,2,3″ để tăng cường tiếng Việt cho học sinh trong các buổi học thứ hai. – Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm phối hợp chặt chẽ với giáo viên bộ môn để tăng cường tiếng Việt cho học sinh trong tất cả các môn học (giáo viên chủ nhiệm lập danh sách những học sinh cần tăng cường tiếng Việt cho giáo viên bộ môn, giáo viên bộ môn dành thời gian trong mỗi tiết học để tăng cường tiếng Việt cho học sinh). – Riêng khối lớp một, chỉ đạo giáo viên thực hiện phương án tăng thời lượng tiếng Việt từ 350 tiết lên 500 tiết (3 tiết/ bài) đối với chương trình hiện hành ( trong những năm học trước và năm học 2016-2017). Bên cạnh việc thực hiện tăng cường tiếng Việt cho học sinh trong tất cả các môn học, việc tổ chức dạy học môn Tiếng Êđê cho học sinh dân tộc thiểu số trong nhà trường cũng rất cần thiết. Học tiếng mẹ đẻ không chỉ giúp học sinh biết giữ gìn những bản sắc văn hóa riêng, chữ viết của dân tộc mình mà còn hỗ trợ đắc lực cho các em trong việc học tập các môn học khác, đặc biệt là môn tiếng Việt. Để giúp giáo viên thực hiện hiệu quả các biện pháp tăng cường tiếng Việt trong các môn học, lãnh đạo nhà trường phải thực sự đồng hành cùng giáo viên. Thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, dự giờ thăm lớp, lãnh đạo nhà trường góp ý, chia sẻ và cùng giáo viên tháo gỡ những khó khăn trong quá trình thực hiện. b.4. Xây dựng môi trường học tiếng Việt cho học sinh b.4.1. Xây dựng môi trường học tiếng Việt trong nhà trường Những ấn tượng trực giác hết sức quan trọng đối với trẻ em, đặc biệt là giai đoạn đầu của bậc tiểu học. Nếu hằng ngày học sinh học sinh được tiếp xúc với một không gian lớp học và trường học tiếng Việt, thì chắc chắn tiếng Việt sẽ dần dần được khắc sâu vào trí nhớ của các em. Vì vậy, xây dựng môi trường học tiếng Việt trong nhà trường là một trong những yếu tố giúp giáo viên thực hiện hiệu quả công tác tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số. Tùy vào tình hình thực tiễn, nhà trường định hướng cho giáo viên tạo cảnh quan tiếng Việt phù hợp. Ví dụ: – Đối với không gian trường học tiếng Việt có thể là: khẩu hiệu, áp phích, bản tin,; tên lớp, tên phòng chức năng, Bên cạnh đó, nhà trường cần thực hiện tốt việc xây dựng mô hình thư viện trường học thân thiện: thư viện xanh, thư viện lớp học, thư viện lưu động,Tăng cường các hoạt động giao tiếp trong trường học, lớp học thông qua hoạt động học tập, vui chơi,để thực hiện hiệu quả xây dựng môi trường học tiếng Việt trong nhà trường. b.4.2. Xây dựng môi trường học tiếng Việt trong gia đình – Khảo sát để nắm được điều kiện cụ thể của từng gia đình học sinh như: ti vi, sách báo, góc học tập, – Xây dựng kế hoạch vận động, hướng dẫn cha mẹ học sinh tạo môi trường tiếng Việt phù hợp với điều kiện từng gia đình, như: tạo góc học tập cho con em, đóng bàn ghế học tập, chọn vị trí đặt bàn học đủ ánh sáng, trang trí góc học tập (thời khóa biểu, giấy khen,); hướng dẫn cha mẹ học sinh tạo điều kiện về thời gian và nhắc nhở con em học bài, quan sát việc học của con em, nhắc nhở con em nghe radio, xem ti vi, đọc sách báo (nếu gia đình có), khuyến khích cha mẹ học sinh giao tiếp với con bằng tiếng Việt, b.4.3. Tổ chức hiệu quả các hoạt động ngoài giờ lên lớp Hoạt động ngoài giờ lên lớp đóng một vai trò quan trọng góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh, thực hiện mục tiêu giáo dục trong nhà trường. Chính từ những hoạt động như: hoạt động tập thể, hoạt động xã hội,…không chỉ trang bị cho các em những kiến thức cơ bản mà còn góp phần thực hiện hiệu quả việc tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số, trau dồi cho các em những kĩ năng sống, kĩ năng giao tiếp, hình thành nhân cách học sinh, đem lại niềm vui cho các em khi đến trường. Để tổ chức hiệu quả các động ngoài giờ lên lớp, chúng tôi đã giao nhiệm vụ cho Tổng phụ trách đội phối hợp với Bí thư đoàn trường căn cứ hướng dẫn về hoạt động ngoài giờ lên lớp của Phòng Giáo dục và Đào tạo, nhiệm vụ năm học của nhà trường và đối tượng học sinh để xây dựng kế hoạch hoạt động ngoài giờ lên lớp ngay từ đầu năm. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá việc triển khai thực hiện kế hoạch, rút kinh nghiệm và có sự điều chỉnh phù hợp trong quá trình thực hiện. * Một số hình ảnh Tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp H1: Hội thi Phụ trách đội giỏi H2: Tổ chức các trò chơi dân gian trong tiết Hoạt động tập thể đầu tuần Bên cạnh việc tổ chức các hội thi, xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp cũng là một trong những tiêu chí được nhà trường hết sức quan tâm. Trước hết, phải xác định mục tiêu rõ ràng để giáo viên và học sinh thực hiện: giữ vệ sinh khuôn viên trường, vệ sinh nguồn nước, hệ thống thoát nước; giữ gìn vệ sinh và cảnh quan môi trường, có nhiều cây xanh bóng mát trong sân trường,… Tổ chức cho học sinh chăm sóc cây thường xuyên; vệ sinh phòng học đủ ánh sáng, thoáng mát, bàn ghế đúng qui cách, đủ chỗ ngồi; trang trí lớp học thân thiện. Tổ chức hiệu quả các hoạt động tập thể lành mạnh giúp xây dựng mối quan hệ tốt giữa thầy và trò, trò và trò. Giúp học sinh có kĩ năng giao tiếp bằng tiếng Việt, ứng xử hợp lí các tình huống trong cuộc sống, kĩ năng làm việc và học tập theo nhóm, có ý thức rèn luyện và bảo vệ sức khoẻ, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội vì vậy, trong những năm học gần đây, không có tai nạn đáng tiếc nào xẩy ra với học sinh. Các em tự tin hơn trong giao tiếp, tích cực, tự giác hơn trong việc chấp hành các nội quy của nhà trường. b.5. Tăng cường công tác vận động duy trì sĩ số, tăng tỉ lệ chuyên cần Duy trì sĩ số, đảm bảo chuyên cần đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng học tập của học sinh nói chung và công tác tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số nói riêng. Nó là nền tảng giúp các em lĩnh hội kiến thức một cách đầy đủ và mang lại kết quả học tập tốt nhất. Để làm tốt công tác duy trì sĩ số, tăng tỉ lệ chuyên cần, chúng tôi đã thực hiện một số biện pháp sau: b.5.1. Công tác phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Bác Hồ đã chỉ rõ: ” Giáo dục các em là việc chung của gia đình, nhà trường và xã hội. Bố mẹ, thầy giáo và người lớn phải cùng nhau phụ trách, trước hết là phải làm gương cho các em hết mọi việc”. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của việc phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong công tác giáo dục học sinh. Muốn công tác phối hợp đạt hiệu quả cao, trước hết nhà trường phải thực sự là trung tâm văn hóa giáo dục ở địa phương. Luôn gương mẫu trong việc gìn giữ môi trường tự nhiên và môi trường xã hội ở địa phương. Từ đó, địa phương sẽ đồng thuận, đồng lòng, đồng sức tham gia xây dựng nhà trường, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa hai bên. Chuẩn bị cho năm học mới, ban giám hiệu nhà trường đã tổ chức thống kê số liệu học sinh đầu năm; tích cực tham mưu với cấp ủy, chính quyền phối hợp cùng các ban ngành đoàn thể địa phương tập trung truyên truyền lồng ghép trong các buổi họp thôn buôn, thông qua đài truyền thanh của xã về ngày toàn dân đưa trẻ đến trường. Làm tốt công tác tuyển sinh trẻ trong độ tuổi vào lớp 1. Đối với những gia đình ở xa thôn buôn, chúng tôi phân công giáo viên dân tộc tại chỗ đến tận nhà học sinh để vận động cha mẹ học sinh đưa trẻ đến trường nhập học. Sau ngày tựu trường, chỉ đạo giáo viên nắm tình hình sĩ số học sinh đến lớp, tìm hiểu nguyên nhân những học sinh chưa ra lớp, phối hợp với ban đại diện cha mẹ học sinh, chính quyền thôn buôn tìm biện pháp vận động phù hợp với từng đối tượng học sinh để huy động tối đa số học sinh trong độ tuổi đến trường. Thường xuyên kiểm tra việc đi học chuyên cần của học sinh nhằm phát hiện kịp thời những đối tượng học sinh có nguy cơ bỏ học để có giải pháp khắc phục, không để học sinh bỏ học lâu ngày rồi mới tìm hiểu nguyên nhân và vận động. Phối hợp với ban chỉ đạo xã tuyên truyền nâng cao nhận thức của gia đình và cộng đồng về vai trò của công tác giáo dục. Vận động các gia đình tạo điều kiện cho con em được đi học và thường xuyên quan tâm đến việc học của con em mình. Tham mưu với các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể cùng quan tâm chăm lo cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo của địa phương. Từ đó, huy động các nguồn lực và các lực lượng tích cực vận động học sinh đi học, học sinh bỏ học trở lại trường, hỗ trợ kịp thời những gia đình khó khăn để con em họ được đến trường như: hỗ trợ quần áo, sách vở, đồ dùng học tập… b.5.2. Phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm Giáo viên chủ nhiệm có vai trò quan trọng trong việc giúp nhà trường thực hiện tốt công tác giáo dục học sinh, trong đó có công tác duy trì sĩ số. Một giáo viên chủ nhiệm tốt không chỉ giúp lớp mình học tốt mà còn biết cách để giúp học sinh siêng năng học tập, yêu thích đến trường và làm tốt công tác duy trì sĩ số học sinh. Phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong công tác duy trì sĩ số, đảm bảo chuyên cần, ngay sau khi tổ chức bàn giao chất lượng học sinh, chúng tôi tổ chức giao nhiệm vụ, chỉ tiêu duy trì sĩ số học sinh cho từng giáo viên chủ nhiệm lớp, xem đó là một trong những tiêu chí quan trọng để xét thi đua cuối năm. Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm kiểm tra thường xuyên việc đi học chuyên cần của học sinh. Nếu học sinh nghỉ học không có lý do quá hai ngày, giáo viên chủ nhiệm có trách nhiệm đến nhà học sinh để vận động các em trở lại lớp. Trường hợp học sinh vẫn không ra lớp sau khi đã được vận động thì phải báo ngay cho ban giám hiệu nhà trường để kịp thời phối hợp ban đại diện cha mẹ học sinh, chính quyền địa phương có biện pháp vận động học sinh đi học lại. Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên phối hợp chặt chẽ với gia đình để giáo dục học sinh. Ngoài ra, giáo viên chủ nhiệm cần hướng dẫn, khuyến khích học sinh tham gia tích cực các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Bằng việc tham gia các hoạt động ngoài giờ lên lớp sẽ giúp các em được tiếp xúc với môi trưòng rộng lớn hơn, phong phú hơn. Từ đó, học sinh học hỏi được nhiều hơn, có kĩ năng giao tiếp bằng tiếng Việt tốt hơn, yêu thích đến trường hơn và từng bước giúp các em hoàn thiện nhân cách của mình. b.5.3. Phối hợp tốt giữa giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn Sự phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn có vai trò hết sức quan trọng trong công tác duy trì sĩ số học sinh, đặc biệt là tỉ lệ chuyên cần của học sinh trong các buổi học thứ hai. Vì vậy, bên cạnh việc giao trách nhiệm cho giáo viên chủ nhiệm, chúng tôi cũng gắn trách nhiệm cho giáo viên bộ môn trong công tác phối hợp vận động học sinh đi học đều, duy trì sĩ số học sinh. Học sinh thường vắng học vào buổi học thứ hai có thể vì do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên các em ở nhà phụ giúp gia đình tăng thêm thu nhập. Cũng có thể vì các em không thích môn học do giáo viên bộ môn dạy,…Vì vậy, giáo viên chủ nhiệm cần tìm hiểu nguyên nhân, phối hợp cùng giáo viên bộ môn đề ra các biện pháp thích hợp nhằm giúp các em có kết quả học tập tốt hơn ở các môn học, từ đó các em sẽ hứng thú học tập và đi học đều đặn. Hơn nữa, thông qua việc trao đổi với giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm sẽ nắm được

Đề Tài Một Số Biện Pháp Dạy Tăng Cường Tiếng Việt Trong Môn Tiếng Việt Cho Học Sinh Dân Tộc Thiểu Số Lớp 3 Trường Tiểu Học Võ Thị Sáu

Bản thân tôi là một giáo viên sở tại dạy học ở trường đã 30 năm. Nên tôi am hiểu về phong tục tập quán của học sinh cũng như những lỗi học sinh thường mắc phải khi học các môn học nhất là môn Tập đọc. Nhiều gia đình phụ huynh học sinh đã quan tâm nhiều hơn đến việc học hành của con em mình và mong muốn con em mình được đi học để sau này có một tương lai tốt đẹp hơn. * Khó khăn Năm học 2015 – 2016, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 3A với tổng số 29 em, trong đó có 27 em là dân tộc Ê đê chiếm 98,1%. Một số em ở lại lớp nhiều năm, việc đọc, viết chưa thành thạo. Kết quả khảo sát đầu năm của môn Tiếng Việt là : TSHS HSDT 9 – 10 7 – 8 5 – 6 DƯỚI 5 29 27 SL % SL % SL % SL % 1 3,7 5 18,5 8 29,6 13 48,1 Khả năng học tiếng Việt của các em còn nhiều hạn chế. Đa số các em có kĩ năng đọc, viết, nghe – nói rất yếu. Nói và viết sai dấu thanh, cụ thể các tiếng có dấu thanh khi đọc và viết các em bỏ dấu đi, những tiếng không có dấu thanh khi đọc và viết lại thêm dấu vào ( ví dụ : hình dáng các em đọc là hinh dang hoặc nhà danh học kiệt xuất các em đọc là nha dành học kiết xuật, nói câu cụt không có chủ ngữ 2.2. Thành công – hạn chế * Thành công Sau khi thực hiện đề tài đã có dấu hiệu khả thi rõ rệt : khả năng giao tiếp bằng tiếng Việt của các em được tốt hơn, các em có kĩ năng nghe, nói, đọc, viết ít sai dấu hơn. * Hạn chế Tốn nhiều thời gian và đòi hỏi giáo viên phải công phu, kiên trì trong quá trình thực hiện. 2.3. Mặt mạnh – mặt yếu * Mặt mạnh Giúp giáo viên phát hiện những thiếu sót trong quá trình giảng dạy, kịp thời phát hiện những khó khăn, yếu kém trong học tập của các em. Được đồng nghiệp góp ý sửa chữa ngay những khiếm khuyết của mình, từ đó đưa ra cách thức cũng như phương pháp giảng dạy phù hợp. * Mặt yếu Đánh giá kết quả học tập của học sinh chỉ dựa vào kết quả của các tiết lên lớp sẽ không khách quan mà ta chưa xem xét đến các điều kiện cần thiết khác như các hoạt động ngoài giờ lên lớp, 2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động đến đề tài Do đứng trước những thực trạng của lớp, của trường chất lượng học môn Tiếng Việt của học sinh quá thấp dẫn đến khả năng nhận biết trong giao tiếp, trong cuộc sống của phần lớn học sinh dân tộc thiểu số quá kém, bởi vậy tôi đã tìm ra một số biện pháp để dạy tăng cường tiếng Việt nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số (Ê đê) lớp 3 tại trường Tiểu học Võ Thị Sáu. Do giáo viên chưa năng động, chưa mạnh dạn linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động nhằm tạo cơ hội cho các em được giao tiếp . 2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra Muốn lồng ghép tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số (Ê đê) lớp 3 có hiệu quả giáo viên cần phải nghiên cứu kỹ mục tiêu bài. Xem những nội dung nào quan trọng trong giờ dạy để từ đó lồng ghép tăng cường tiếng Việt để củng cố cho học sinh cách đọc – nói – nghe – viết cho chuẩn. Nên tập trung vào những tiếng, từ các em đọc, viết chưa chuẩn mà lồng ghép, tránh lồng ghép một cách tràn lan và không phù hợp. Giáo viên cũng cần chọn lọc cô đọng các tiếng, từ mà các em thường xuyên đọc, viết hay sai tiếng, dấu thanh, hạn chế tối đa các sai sót khi lồng ghép tăng cường tiếng Việt. Khi làm tốt điều này giáo viên sẽ thu về được một kết quả tốt, giúp các em tự tin, hòa đồng, cố gắng phấn đấu, nhất là tinh thần giúp đỡ nhau trong học tập. Các tiết dạy được lồng ghép tăng cường tiếng Việt các em hưởng ứng rất nhiệt tình, hứng thú và tiếp thu bài tốt, không khí lớp học sôi nổi, học sinh chủ động hợp tác. Kết quả học tập được nâng lên. Giáo viên chủ động tiếp xúc, gần gũi, thực sự yêu nghề, mến trẻ phải là một “Tấm gương sáng cho học sinh noi theo”, tôn trọng, đối xử công bằng với học sinh, tích cực đi thực tế gia đình học sinh để nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, điều kiện kinh tế, hoàn cảnh gia đình của từng học sinh nhiều hơn nữa thì hiệu quả rèn cho các em học tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số ngày càng đạt kết quả cao hơn. Giáo viên phải luôn luôn đổi mới phương pháp dạy học, dạy lồng ghép các hoạt động, các trò chơi bổ ích để gây hứng thú cho các em không chán nản trong học tập, tạo cho các em cảm giác “Mỗi ngày đến trường là một niềm vui”. Từ đó các em sẽ gây hứng thú trong học tập và thích đến trường, đến lớp để học tập. Trong quá trình giảng dạy hoặc tiếp xúc nói chuyện với học sinh, với đồng nghiệp, với tất cả mọi người cũng phải nói chuẩn tiếng Việt không được nói tiếng địa phương để các em bắt chước và học theo. Trong giờ dạy giáo viên phải quan tâm chú ý nhiều hơn đến học sinh đọc, viết sai chính tả (dấu thanh, các phụ âm đầu, các vần khó) để uốn nắn các em đọc, viết cho chính xác và chuẩn tiếng Việt. Bản thân phải theo học lớp dạy tiếng Ê đê để hiểu biết vốn ngôn ngữ, phong tục tập quán của người dân tộc địa phương nơi đang công tác, để phát huy hết khả năng của mình trong công tác giảng dạy. Đặc biệt cần quan tâm nhiều hơn đến đối tượng học sinh khó khăn trong học tập, học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nhằm cảm hoá các em để các em coi thầy, cô giáo là chỗ dựa tinh thần và tạo được mối quan hệ tình cảm thầy – trò, làm cho các em thích đến trường hơn ở nhà thì các em sẽ đi học chuyên cần và tích cực học tập do đó giảm thiểu được tối đa các em phát âm sai (dấu thanh, các phụ âm đầu, các vần khó). 3. Giải pháp, biện pháp tiến hành 3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Nhằm nâng cao chất lượng học môn Tiếng Việt và sử dụng tiếng phổ thông vào trong cuộc sống hằng ngày. Giúp các em hòa nhập với cộng đồng. 3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp Các phân môn Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập làm văn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tích hợp lẫn nhau, góp phần hình thành nên các kỹ năng Nghe – Nói – Đọc -Viết của môn Tiếng Việt. Vì vậy tôi đã vận dụng một số biện pháp sau nhằm nâng cao hiệu quả trong giảng dạy cho các em: Biện pháp 1: Thường xuyên tăng cường khả năng nghe và nói tiếng Việt cho học sinh thông qua dạy Tập đọc. Khó sửa nhất về kỹ năng nói của học sinh Ê đê là nói thừa hoặc thiếu dấu thanh dẫn đến đọc, nói sai tiếng, từ. Do vậy, khi giảng từ, giải nghĩa từ, hướng dẫn phát âm tôi hướng dẫn kỹ, phát âm mẫu nhiều lần, sửa sai cụ thể cho các em. Ví dụ: Khi dạy bài Tập đọc: “Mồ Côi xử kiện” tôi gọi một em đọc tốt đọc mẫu để cả lớp cùng được nghe sau đó yêu cầu các em phát hiện những tiếng, từ mà các em hay đọc và nói sai sau đó hướng dẫn phát âm đúng các từ đó. Ví dụ như từ : công đường, thản nhiên, bằng cách cho các em phân tích lại cấu tạo các tiếng, từ rồi gọi nhiều em đọc, em nào đọc chưa chuẩn tôi cho các em đọc lại từ đó nhiều lần, rồi tôi cùng sửa cho các em. Đối với em khó khăn về đọc, tôi hướng dẫn các em đánh vần sau đó đọc trơn lại và nhiều em được luyện đọc từ khó. Khi đọc đoạn, tôi lắng nghe phát hiện và sửa sai ngay những tiếng, từ các em còn đọc sai. Bên cạnh đó, tôi còn giúp các hiểu nghĩa của các từ ngữ trong phần chú giải và cung cấp thêm từ mới sau đó giải nghĩa để học sinh hiểu được nghĩa của từ “công đường”, ” bồi thường” và cho các em nhắc lại nghĩa của từ đó. Phần tìm hiểu bài, tôi đưa ra câu hỏi và yêu cầu các em suy nghĩ trả lời đầy đủ câu. Nếu em nào trả lời chưa đủ câu, tôi cho các em trả lời lại hay gọi em khác trả lời đầy đủ hơn và yêu cầu em đó nhắc lại câu trả lời của bạn. Cứ như thế một thời gian sau các em dần sửa được cách nói câu cụt. Trong giờ dạy, tôi chú ý tạo điều kiện cho tất cả các em đều được tham gia trả lời, giao tiếp tuỳ thuộc vào khả năng của từng đối tượng và dành nhiều thời gian tập và hướng dẫn thật kĩ nên hiệu quả nâng cao. Mặt khác, việc tập nói tiếng Việt cho học sinh phải được thực hiện dưới nhiều hình thức và phương pháp dạy học khác nhau như: dạy trong tiết dạy tăng cường tập nói tiếng Việt, dạy tích hợp vào các tiết học khác, thông qua các tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp, thông qua trò chơi, nói chuyện…..với các phương pháp trực quan, phương pháp thực hành luyện tập theo mẫu, phương pháp giao tiếp, phương pháp đàm thoại. Việc phối hợp hệ thống các phương pháp dạy tập nói tiếng Việt giúp các em dễ hiểu dễ nhớ về nghĩa của từ thông qua các hình ảnh trực quan, nói đúng cấu trúc câu theo mẫu, hạn chế cách nói ngược theo tiếng địa  phương. Tập cho học sinh khả năng diễn đạt theo tình huống, tự tin trong học tập, giao tiếp với bạn bè với thầy cô giáo bằng tiếng Việt. Tuy vậy, cần phải có sự linh hoạt sáng tạo, không rập khuôn máy móc, mà phải tuỳ theo từng mức độ của đối tượng để lựa chọn nội dung và phương pháp cho phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả theo các việc sau đây: Lựa chọn tiếng, từ để  tập nói cho phù hợp. Luyện nói theo câu hỏi, câu trả lời có chứa các tiếng, từ mới cung cấp cho học sinh. Tạo tình huống cho học sinh đối thoại, được giao tiếp trong đó chú ý tạo môi trường giao tiếp học sinh với học sinh dưới sự hướng dẫn của tôi . Biện pháp 2: Rèn luyện kỹ năng viết (Chính tả – Tập làm văn) a. Viết đúng chính tả: Viết đúng chính tả bao gồm những nội dung sau: Viết đúng con chữ của Tiếng Việt. Viết đúng âm vần, ghép đúng các con chữ để tạo thành các tiếng đúng. Sử dụng đúng các dấu thanh. Biết cách trình bày một bài viết đẹp. Làm thế nào giúp các em viết đúng chính tả ? Đây là việc làm đòi hỏi tôi phải viết chữ đúng mẫu và đẹp, hiểu điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn của học sinh, từ đó mới đề ra các biện pháp trong việc rèn luyện kỹ năng viết đúng chính tả cho học sinh. Vậy để học sinh viết đúng, đầu tiên tôi hướng dẫn tư thế ngồi học, ngồi viết, cách cầm phấn, cầm bút, cách để vở … cho toàn bộ học sinh một cách kỹ lưỡng với việc làm mẫu nhiều lần của tôi cũng như học sinh. Đồng thời phải thường xuyên uốn nắn giúp đỡ về tư thế ngồi học trong các tiết học khác để các em có thói quen ngồi học đúng tư thế. Tôi dạy thật kỹ, dạy nhiều lần, hướng dẫn làm mẫu nhiều lần các nét của con chữ như : nét khuyết, nét sổ thẳng, nét cong, nét móc, nét thắt….. Mặt khác, tôi giới thiệu chữ mẫu và hướng dẫn cách viết cụ thể về đặc điểm, cấu tạo của các chữ, giúp các em nhận ra sự giống và khác nhau về cấu tạo của các chữ. Từ những việc làm này đã giúp cho học sinh dễ nhận diện, dễ nhớ mặt chữ, hạn chế những sai sót trong khi viết chính tả. Bên cạnh đó việc sử dụng đúng các dấu thanh cũng không kém phần quan trọng nên khi hướng dẫn luyện tập nói, luyện đọc tôi chỉ rõ những sai sót khi các em đọc sai dấu, thừa, thiếu các dấu thanh và yêu cầu đọc lại cho đúng. Trước khi viết, tôi cho các em luyện viết và chữa kỹ những tiếng các em thường mắc lỗi về sử dụng dấu thanh để hạn chế những sai sót do nói thế nào viết thế vậy. VD: Quả chuối – quả chuôi; năm mới – năm mơi; phấp phới – phấp phơi; buổi tối – buôi tôi.. ( viết thiếu dấu sắc) Thanh điệu: thanh hỏi, thanh ngã VD: cửa sổ – cưa sô; vội vã – vôi va Tôi cho học sinh đọc nội dung đoạn viết sau đó cho các em tìm những tiếng, từ khó: chiều, lạc đường, nhòa, rưng rưng, rồi hướng dẫn phân tích cấu tạo ,.., đọc, viết các từ đó trên bảng lớp và giấy nháp ( viết cá nhân ). Sau đó sửa sai và viết mẫu cho các em quan sát. Trước khi cho các em viết vào vở, tôi hướng dẫn cách trình bày bài viết và yêu cầu các em nhắc lại tư thế ngồi viết. Trong quá trình dạy học, tôi còn hướng dẫn thêm những quy tắc thông thường về viết chính tả như cách sử dụng dấu hỏi, ngã trong từ láy. Ngoài ra, tôi chọn nội dung phù hợp với thực tiễn các dạng bài tập như phân biệt giữa các vần an / anh, âng / ân, , các chữ có dấu hỏi / ngã, sắc / huyền, giúp cho các em hiểu nghĩa của từ một cách chắc chắn từ đó viết đúng chính tả. Một điều không kém phần quan trọng giúp cho học sinh viết đúng chính tả thì tôi phải phát âm chuẩn, đọc vừa đủ to, rõ. Đối với học sinh dân tộc thì  phải chẻ nhỏ câu theo từ hoặc cụm từ để đọc tránh đọc cả câu dài, đồng thời phải đọc nhắc lại nhiều lần. Tuy vậy, việc đọc chính tả phải đảm bảo đúng quy định về cách đọc. Ví dụ: Đọc lần 1, lần 2 thì chẻ nhỏ theo từ, ngữ nhưng lần 3(có thể lần 4) thì phải đọc liền mạch ít nhất đến dấu phẩy. Nếu viết chính tả đối với bài thơ thì việc đọc theo từ, ngữ đều phải tuân thủ theo nhịp của bài thơ. Tóm lại muốn học sinh viết đúng, viết đẹp tôi phải biết tác động một cách toàn diện để giúp học sinh có được các kỹ năng nghe- nói- đọc- viết đúng tiếng Việt. Trước khi cho học sinh viết chính tả cần thực hiện các bước sau: Rèn cho học sinh đọc đoạn viết. Cho học sinh luyện đọc, luyện viết những tiếng, từ thường đọc, viết sai. Trước khi cho học sinh viết phải dặn dò tư thế ngồi viết, cách trình bày và  các yêu cầu trong khi viết. Tôi đọc cho học sinh viết bài, đọc cho học sinh soát lỗi. Yêu cầu học sinh đổi chéo vở để soát lỗi, sửa lỗi cho nhau. b. Kỹ năng Tập làm văn: Kỹ năng Tâp làm văn của học sinh phụ thuộc vào những yếu tố sau: Khả năng viết đúng câu, liên kết câu văn, đoạn văn . Ví dụ:  Đề bài: Nghe và kể lại câu chuyện Chàng trai làng Phù Ủng Với đề bài này học sinh phải xác định được: Thể loại: Nghe và kể lại câu chuyện. Theo yêu cầu của đề bài tôi phải kể câu chuyện trong tranh cho học sinh nghe và gọi vài em kể lại. Sau đó đòi hỏi học sinh quan sát tranh ảnh để sử dụng từ phù hợp với trình tự tả theo câu hỏi gợi ý. Tôi đưa ra một hệ thống câu hỏi gợi ý, gợi mở giúp các em hình dung, tái tạo những điều mà các em đã quan sát qua tranh, ảnh từ đó viết được câu văn có nghĩa, Ví dụ : Chàng trai ngồi bên vệ đường làm gì ? HS trả lời: Đang đan sọt. Vì sao quân lính đâm giáo vào đùi chàng trai ? (Vì mải đan sọt và suy nghĩ việc nước không biết nhà vua đi qua.) Vì sao Trần Hưng Đạo đưa chàng trai về kinh đô ? (Vì thấy chàng trai có long yêu nước tha thiết) Tình cảm của em đối với Trần Hưng Đạo như thế nào ? ( Em rất kính phục Trần Hưng Đạo vì là một vị vua tốt có lòng yêu nước thương dân và trọng người tài) Khả năng viết văn của các em hiện nay còn hạn chế bởi vì vốn hiểu biết của các em còn hạn hẹp. Câu văn còn cụt, chưa có hình ảnh. Cách diễn đạt chủ yếu mang tính liệt kê. Các tiết luyện nói hầu hết các em chưa phát huy được khả năng của mình còn bắt chước vào việc làm mẫu của bạn và của cô. Chính vì vậy mà không phát huy khả năng sáng tạo, tiếp thu bài thụ động chỉ nói lại lời của giáo viên. Vậy làm thế nào để hạn chế điều đó ? Tôi đã dạy kỹ tập cho học sinh chủ động tìm câu từ để trả lời câu hỏi.  Đối với  những câu hỏi dài, tôi phải chẻ nhỏ để cho học sinh dễ trả lời, đặc biệt là tạo cơ hội để học sinh khó khăn về học tập tham gia phát biểu, hướng dẫn kĩ, cụ thể hơn, chi tiết hơn, mở rộng các cách diễn đạt khác nhau của cùng một nội dung để các học sinh khác nhau có cách diễn đạt khác nhau. Tôi không làm bài mẫu mà để học sinh tự viết, sau đó chữa lỗi kỹ cho học sinh từ bố cục đến cách dùng từ, đặt câu và nội dung còn mắc phải của bài văn. Sau khi chữa xong tôi yêu cầu học sinh viết lại . Với cách làm như trên, sau một thời gian học sinh đã phát huy tính tự lập, khả năng sử dụng từ ngữ, đặt câu, diễn đạt của học sinh sẽ có tiến bộ nhất định, hạn chế dần sự phụ thuộc vào lời văn của người khác.  Biện pháp 3: Tăng cường Luyện từ và câu Luyện từ và câu là một phân môn của môn Tiếng Việt. Luyện từ và câu giúp cho học sinh: Cung cấp cho học sinh những kiến thức về cấu trúc của câu từ đơn giản đến phức tạp, đồng thời rèn cho các em có thói quen và kỹ năng viết đúng cấu trúc ngữ pháp. Bước đầu giúp học sinh hiểu biết về khái niệm, tác dụng của những từ loại cơ bản nhất của Tiếng Việt . Việc hướng dẫn, cung cấp từ mới cho học sinh được thực hiện từ dễ đến khó, từ những sự vật, sự việc gần gũi diễn ra xung quanh các em đến những sự vật hiện tượng xa các em. Do vậy, để việc cung cấp từ mới của tiếng Việt cho học sinh dân tộc có hiệu quả tôi đã kết hợp tốt với việc luyện nói cho học sinh. Bao gồm từ việc phát âm mẫu đến giải nghĩa, đặc biệt là tạo tình huống trả lời các câu hỏi, tình huống giao tiếp có các từ  mới. Tăng cường luyện và rèn khả năng đặt câu với từ mới song song với việc sửa sai trong dùng từ đặt câu cho học sinh. Một điểm cần quan tâm là năng lực tư duy tiếng Việt của học sinh còn hạn chế, bởi vậy để cho học sinh dễ nhớ thì giáo viên phải chủ động chuẩn bị đồ dùng dạy học trực quan như tranh ảnh, mẫu vật thật phục vụ cho việc cung cấp và giải nghĩa từ mới cho học sinh. Mặt khác, tôi cũng phải có hiểu biết nhất định về tiếng Ê – đê để hỗ trợ việc giải nghĩa từ của giáo viên khi cần thiết. Ví dụ: Khi dạy bài tập 2, bài tập 3 tiết 8 “Mở rộng vốn từ cộng đồng. Ôn tập câu Ai làm gì? ” trang 65 sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3, tập 1. Tôi tổ chức cho các em xác định yêu cầu đề bài sau đó hướng dần học sinh làm bài: Bài tập 2: Giải thích từ “cật” trong câu “Chung lưng đấu cật”: lưng, phần lưng ở chỗ ngang bụng (Bụng đói cật rét) – ý nói sự đoàn kết, góp sức cùng nhau làm việc . Bài tập 3: Tìm các bộ phận của câu: + Gạch 1 gạch dưới bộ phận trả lời cho câu hỏi Ai (cái gì, con gì)? + Gạch 2 gạch dưới bộ phận trả lời cho câu hỏi làm gì? Đàn sếu đang sải cánh trên cao. Sau một cuộc dạo chơi, đám trẻ ra về. Các em tới chỗ ông cụ lễ phép hỏi. Hoặc do vốn tiếng Việt còn hạn chế nên học sinh thường mắc một số lỗi câu như: dùng từ không đúng, từ xưng hô không phù hợp do không hiểu nghĩa của từ. Học sinh thường nói trống không, nói câu không có chủ ngữ câu không đầy đủ, câu không đúng trật tự …. Để khắc phục những lỗi trên tôi cung cấp cho học sinh một số đặc điểm về cấu tạo từ, hệ thống từ xưng hô Tôi chọn một số mẫu câu chuẩn cho học sinh luyện tập nói theo mẫu câu chuẩn. Có thể tổ chức cho học sinh luyện nói theo trình tự : Tôi nêu tình huống câu cần nói: Ví dụ: Khi gia đình có khách đến thăm và cho em quà em cần phải làm gì? Tôi giới thiệu câu – nói mẫu lần 1 Ví dụ: – Cháu chào bác ạ ! – Cháu xin. Cháu cảm ơn Bác! Tôi nói mẫu lần 2 –

Bạn đang đọc nội dung bài viết Đề Tài Một Vài Kinh Nghiệm Tạo Hứng Thú Học Tiếng Anh Cho Học Sinh Lớp 3 Người Dân Tộc trên website Maytinhlongthanh.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!