Cập nhật nội dung chi tiết về Các Nguyên Tắc Và Phương Pháp Dạy Học Tiếng Việt mới nhất trên website Maytinhlongthanh.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
I. CÁC NGUYÊN TẮC.
I.1. Khái niệm về nguyên tắc dạy học tiếng mẹ đẻ.
“nguyên tắc giảng dạy tiếng mẹ đẻ là những tiền đề cơ bản xác định nội dung, phương pháp và cách tổ chức hoạt động dạy học tiếng mẹ đẻ của thầy giáo và học sinh”
– Dựa vào qui luật của quá trình thủ đắc ngôn ngữ ( acquisition ), Fêđôrenkô đề xuất 5 nguyên tắc: (xem Giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt, Lê A chủ biên, trang 47)
– Các nguyên tắc chiến lược và nguyên tắc chiến thuật, theo Duđnhicôp: (xem Giáo trình như trên trang 49)
I.2. Sự chi phối của các nguyên tắc dạy học đối với quá trình tổ chức dạy học tiếng Việt trong nhà trường.
a. Dựa vào các nguyên tắc dạy học tiếng cho học sinh bản ngữ, SGK xác định và sắp xếp nội dung dạy học cho phù hợp với đối tượng học tiếng mẹ đẻ ở từng cấp học, từng lớp học.
b. Việc lựa chọn phương pháp dạy học để thực hiện tiến trình lên lớp phải sao cho bảo đảm tốt nhất các nguyên tắc dạy học. Hơn nữa, việc sử dụng và thể hiện phương pháp dạy học bao giờ cũng phải được thực hiện trong khuôn khổ những nguyên tắc thì mới bảo đảm được hiệu quả dạy học.
c. Các nguyên tắc dạy học không chỉ được biểu hiện qua nội dung dạy học, phương pháp dạy học mà còn biểu hiện qua việc lựa chọn hình thức dạy học. Diễn giảng hoặc đàm thoại, đọc sách giáo khoa hay làm bài tập tiếng Việt.đều phải lưu ý đúng mức đến vai trò của giao tiếp, của mục đích phát triển kĩ năng ngôn ngữ và rèn luyện tư duy.
Bài 3. CÁC NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG VIỆT I. CÁC NGUYÊN TẮC. I.1. Khái niệm về nguyên tắc dạy học tiếng mẹ đẻ. "nguyên tắc giảng dạy tiếng mẹ đẻ là những tiền đề cơ bản xác định nội dung, phương pháp và cách tổ chức hoạt động dạy học tiếng mẹ đẻ của thầy giáo và học sinh" - Dựa vào qui luật của quá trình thủ đắc ngôn ngữ ( acquisition ), Fêđôrenkô đề xuất 5 nguyên tắc: (xem Giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt, Lê A chủ biên, trang 47) - Các nguyên tắc chiến lược và nguyên tắc chiến thuật, theo Duđnhicôp: (xem Giáo trình như trên trang 49) I.2. Sự chi phối của các nguyên tắc dạy học đối với quá trình tổ chức dạy học tiếng Việt trong nhà trường. a. Dựa vào các nguyên tắc dạy học tiếng cho học sinh bản ngữ, SGK xác định và sắp xếp nội dung dạy học cho phù hợp với đối tượng học tiếng mẹ đẻ ở từng cấp học, từng lớp học. b. Việc lựa chọn phương pháp dạy học để thực hiện tiến trình lên lớp phải sao cho bảo đảm tốt nhất các nguyên tắc dạy học. Hơn nữa, việc sử dụng và thể hiện phương pháp dạy học bao giờ cũng phải được thực hiện trong khuôn khổ những nguyên tắc thì mới bảo đảm được hiệu quả dạy học. c. Các nguyên tắc dạy học không chỉ được biểu hiện qua nội dung dạy học, phương pháp dạy học mà còn biểu hiện qua việc lựa chọn hình thức dạy học. Diễn giảng hoặc đàm thoại, đọc sách giáo khoa hay làm bài tập tiếng Việt...đều phải lưu ý đúng mức đến vai trò của giao tiếp, của mục đích phát triển kĩ năng ngôn ngữ và rèn luyện tư duy... I.3. Các nguyên tắc đặc thù của Phương pháp dạy tiếng. I.3.1. Nguyên tắc rèn luyện ngôn ngữ gắn liền với phát triển năng lực tư duy. - Mệnh đề " ngôn ngữ là hiện thực của tư tưởng" thể hiện quan hệ chặt chẽ giữa ngôn ngữ và tư duy. Ngôn ngữ là công cụ để tư duy và biểu hiện tư duy. - Tính khái quát và hệ thống của tri thức ngôn ngữ đòi hỏi các thao tác tư duy tương ứng. - Thực hành ngôn ngữ không chỉ gắn liền với tầng bậc của hình thức ngữ pháp mà còn thường xuyên rèn luyện tư duy về nội dung ngữ nghĩa lôgic, tư duy biện chứng, kể cả tư duy hình ảnh. - Suy cho cùng, biểu hiện rõ rệt nhất của năng lực ngôn ngữ ở một cá nhân là sự biểu hiện của trình độ tư duy thông qua sản phẩm giao tiếp mà cá nhân đó tổ chức nên. Hệ quả của năng lực tạo sinh văn bản tất yếu đồng thời với năng lực tiếp nhận văn bản. I.3.2. Nguyên tắc hướng vào hoạt động giao tiếp. - Giao tiếp là nhu cầu tồn tại của xã hội. Lịch sử nhân loại đã trải qua giao tiếp với nhiều phương tiện khác nhau, trong đó, quan trọng nhất là ngôn ngữ. - Như vậy, ngôn ngữ luôn luôn tồn tai và phát triển trong giao tiếp và qua giao tiếp. Điều này dẫn đến cách hiểu tự nhiên là dạy học ngôn ngữ phải dạy học trong giao tiếp. - Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ là trực quan sinh động của hoạt động dạy và học ngôn ngữ. Việc rèn luyện năng lực ngôn ngữ cá nhân lấy đó làm phương tiện, làm môi trường rèn luyện của mình. - Sản phẩm của hoạt động giao tiếp, tức các ngôn bản là công cụ trực quan của tiến trình dạy học tiếng. Đồng thời, vì người học phải phấn đấu để có khả năng tạo ra hoặc khả năng tiếp nhận các ngôn bản đó khi giao tiếp nên chúng cũng có tính mục đích đối với người học. Do vậy, có thể nói rằng hoạt động giao tiếp là môi trường học tập vừa mang tính phương tiện vừa mang tính mục đích. - Hướng về hoạt động giao tiếp, dạy học tiếng gặp những thuận lợi sau: + Là một ngôn ngữ không biến hình, tiếng Việt chỉ có thể bộc lộ đặc điểm ý nghĩa và đặc điểm ngữ pháp trong các phát ngôn cụ thể. Nhờ đó, người học xác lập một cách rõ ràng mối liên hệ giữa lí thuyết với thực tế sử dụng ngôn ngữ. + Là sản phẩm của hoạt động giao tiếp, ngôn bản ( nói, viết ) là chỉnh thể thống nhất của yếu tố ngôn ngữ và yếu tố phi ngôn ngữ. Nói cách khác, nếu tách yếu tố ngôn ngữ khỏi ngữ cảnh, tách tác phẩm khỏi hoàn cảnh sáng tác, người tiếp nhận sẽ không thể hiểu đúng được nội dung. Dạy học gắn với giao tiếp chính là gắn với đời sống tâm lí cộng đồng dân tộc, với đặc điểm xã hội - lịch sử...; ở đó, lời nói cá nhân vừa phù hợp với tâm lí chung vừa có cá tính của chủ thể nói năng. - Nhằm tạo thuận lợi cho việc bảo đảm nguyên tắc này, ngoài việc ứng dụng các phương pháp dạy học thích hợp, vai trò của cấu trúc nội dung bài dạy của sách giáo khoa có ý nghĩa rất quan trọng. I.3.3. Nguyên tắc chú ý đến trình độ tiếng Việt đã có của học sinh. - Mỗi người bình thường có một bộ thói quen sử dụng tiếng mẹ đẻ. Bộ thói quen này bao gồm những thói quen đúng và thói quen sai, bao gồm vốn từ tích cực và vốn từ tiêu cực, bao gồm kinh nghiệm và khả năng phân tích lẫn tính nhạy cảm bản ngữ. Quá trình học tập tiếng mẹ đẻ ở nhà trường và ngoài đời là quá trình ý thức hoá bộ thói quen đó về các mặt cấu trúc ngôn ngữ, tổ chức lời nói, ý nghĩa xã hội...kể cả kinh nghiệm dùng lời trong các bối cảch giao tiếp khác nhau. - Mỗi học sinh ở cấp học, lớp học cụ thể hiện có một trình độ tiếng Việt cụ thể cùng với một bộ thói quen tương ứng như vừa nói ở trên. Đây là đặc điểm đáng lưu ý của học sinh bản ngữ mà người thầy dạy học tiếng mẹ đẻ có thể tận dụng như là một thuận lợi lớn trong dạy học. Đặc điểm này loại biệt khá rõ nội dung, phương pháp và hình thức dạy học tiếng mẹ đẻ cho học sinh bản ngữ với dạy học ngoại ngữ. + Nội dung dạy học tiếng mẹ đẻ là nội dung tích hợp nhằm rèn luyện năng lực sử dụng tiếng mẹ đẻ. Đó là nội dung tri thức về hệ thống ngôn ngữ, về cách sử dụng ngôn ngữ trong bối cảnh xã hội - lịch sử cụ thể, trong đời sống tâm lí và tinh thần dân tộc, trong truyền thống đạo đức và vẻ đẹp nhân văn...Dạy học ngoại ngữ phải vượt qua chặng đường dài mới có thể vươn tới sự tương thích trên. + Nếu như học ngôn ngữ thứ hai, người học cảm thấy xa lạ với mọi yếu tố trong ngôn bản, từ hình thức diễn đạt đến nội dung ngữ nghĩa thì học tiếng mẹ đẻ, nội dung và hình thức của ngôn bản đều quen thuộc. Mục đích dạy học tiếng mẹ đẻ là làm sao giúp học sinh ý thức được qui tắc của cách nói cho phù hợp với nội dung quen thuộc trên. Theo tinh thần dạy học như vậy, trình độ tiếng mẹ đẻ sẵn có ở học sinh, đặc biệt là năng lực tiếp nhận nội dung ngữ nghĩa chính là phương tiện giúp học sinh học cách tổ chức hình thức diễn đạt cho nội dung đó. Nói gọn lại, về phương pháp dạy học, thầy giáo dạy tiếng mẹ đẻ có thể dựa vào trình độ tiếng Việt sẵn có của học sinh để giúp học sinh ý thức hoá và hoàn thiện bộ thói quen sử dụng tiếng mẹ đẻ của mình. - Một khía cạnh cần quan tâm khi chú ý đến trình độ tiếng Việt đã có ở học sinh bản ngữ là tính nhạy cảm bản ngữ. Đây là khả năng tiếp nhận ngữ nghĩa tiếng mẹ đẻ cùng với mọi sắc thái của nó một cách gần như trực cảm không qua phân tích. Dựa vào năng lực tiếp nhận nội dung của học sinh bản ngữ để dạy học cách tổ chức hình thức lời nói, giáo viên không thể không coi trọng tính nhạy cảm bản ngữ ở họ. - Ngoài các đặc điểm chung về trình độ tiếng Việt đã có ở học sinh như đã nói ở trên, giáo viên còn phải khảo sát và phân lập được trình độ cụ thể của từng lớp, từng học sinh mình phụ trách để có kế hoạch dạy học thích hợp. I.3.4. Nguyên tắc so sánh và phát triển hài hoà ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. - Ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết là hai dạng tồn tại của ngôn bản. Chúng có những đặc điểm khác nhau và cần thiết phải phân biệt trên cơ sở đối chiếu, so sánh để diễn đạt cho phù hợp. - Tuy có đặc điểm khác nhau nhưng một vài sắc thái riêng của ngôn ngữ nói có thể bổ sung cho hiệu quả diễn đạt của ngôn ngữ viết và ngược lại. Do đó, phát triển hài hoà cả hai loại ngôn bản này vừa phù hợp với yêu cầu giao tiếp xã hội vừa phù hợp với việc tăng cường hiệu quả diễn đạt của chúng. Để có thể bảo đảm được nguyên tắc này, giáo viên nên thường xuyên giúp học sinh ý thức rõ đặc điểm của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, cũng như sự ảnh hưởng tích cực và tiêu cực lẫn nhau giữa chúng trong diễn đạt. - Về vai trò của thầy giáo, nguyên tắc này được tuân thủ bằng việc điều khiển tốt bài tập thực hành miệng, các tiến trình giao tiếp xây dựng bài học, trả và hướng dẫn sửa chữa bài tập viết, v.v... II. CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH BẢN NGỮ. II.1. Về khái niệm phương pháp dạy học. - Nhiệm vụ chủ yếu của môn Phương pháp dạy học là trả lời câu hỏi: dạy như thế nào để đạt hiệu quả dạy học tốt nhất? Nội dung trả lời chính là sự cụ thể hoá lí thuyết cũng như sự ứng dụng các phương pháp dạy học. II.2. Một số cách tiếp cận khác nhau đối với việc xây dựng hệ thống phương pháp dạy học tiếng. II.2.1. Các bình diện khác nhau của phương pháp dạy học: a- điều hành quá trình giảng dạy b- theo các con đường nhận thức và đặc trưng hoạt động tư duy c- theo các hình thức tổ chức dạy học d- theo phương thức đặc thù tiếp nhận các nội dung tri thức II.2.2. Một số tổ hợp phương pháp dạy tiếng thường được nói tới. II.3. Các phương pháp dạy học tiếng Việt thường dùng. II.3.1. Phương pháp thông báo - giải thích. - Đây là một phương pháp dạy học truyền thống, còn có tên gọi là phương pháp truyền thụ (transmission). Phương pháp này từng đóng vai trò và có đóng góp đáng kể cho giáo dục trong nhiều thế kỉ. - Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, phương pháp này trở nên bất lực trước một khối lượng tri thức khổng lồ cần chuyển tải đến người học. Tuy vậy, trong vài điều kiện cụ thể của môi trường giáo dục, của đối tượng giáo dục...như học sinh cấp tiểu học và cấp trung học cơ sở chẳng hạn, phương pháp thông báo giải thích vẫn mang lại hiệu quả tốt. Hiện nay, không phải bất cứ đâu và bất cứ ai cũng có thể tiếp cận được nguồn thông tin khổng lồ của nhân loại. Hơn nữa, có người thầy có kinh nghiệm tham khảo tài liệu, lựa chọn, tổng kết một nội dung thuộc một phạm vi tri thức nào đó cũng là điều tốt, vừa tiết kiệm thời gian, vừa khắc phục được tình trạng thiếu điều kiện tiếp cận thông tin của người học. - Để hỗ trợ cho phương pháp này, giáo viên thường dùng các công cụ trực quan như bảng biểu, sơ đồ...nhằm giúp người học tiếp thu kiến thức một cách có hệ thống. - Như đã nói ở trên, phương pháp này đã không còn phổ biến như trước nữa do môi trường xã hội học tập đã đổi khác. Giáo viên không nên l ... ngữ. - Dù sử dụng biện pháp nào, quan sát - phân tích ngôn ngữ cũng phải thực hiện các thao tác sau: + Phân tích - phát hiện + Phân tích - chứng minh + Phân tích - phán đoán + Phân tích - tổng hợp - Để có thể ứng dụng được phương pháp này, giáo viên cần phải có kĩ năng phân tích ngữ pháp và ngữ nghĩa logic, phải chuẩn bị kĩ càng, tỉ mỉ hệ thống câu hỏi gợi tìm theo định hướng bài học. + Về kĩ năng phân tích ngữ pháp và ngữ nghĩa logic + Về yêu cầu của hệ thống câu hỏi gợi tìm II.3.3. Phương pháp rèn luyện theo mẫu. - Mô phỏng, bắt chước theo kinh nghiệm giao tiếp gắn liền với quá trình hình thành và phát triển ngôn ngữ của con người. Phương pháp rèn luyện theo mẫu là cách dạy học một cách có ý thức về thói quen và kinh nghiệm ấy. - Đối với học sinh trung học phổ thông, phương pháp này nên ứng dụng cho dạy học tạo sinh lời nói. Thầy giáo chọn và giới thiệu các mẫu hoạt động ngôn ngữ rồi hướng dẫn học sinh phân tích để hiểu và nắm vững cơ chế của chúng; sau đó, bắt chước mẫu đó một cách sáng tạo vào lời nói của mình. - Phương pháp rèn luyện theo mẫu có thể được áp dụng theo các bước sau đây: + Cung cấp mẫu lời nói hoặc hành động lời nói. + Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích mẫu theo một số yêu cầu. + Học sinh mô phỏng mẫu để tạo ra lời nói của mình. + Kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm. II.3.4. Phương pháp giao tiếp. - Giao tiếp là chức năng trọng yếu của hoạt động ngôn ngữ. Dạy học tiếng cho học sinh cũng là nhằm giúp các em có năng lực tham gia vào hoạt động giao tiếp. Do đó, phương pháp giao tiếp lấy giao tiếp làm phương thức dạy học vùa phù hợp với mục đích dạy học, lại vừa phù hợp với nguyên tắc trực quan trong dạy học. Chỉ có dạy học trong môi trường giao tiếp, học sinh mới dễ dàng tiếp cận mối quan hệ giữa lí thuyết và thực hành, giữa cụ thể và khái quát, giữa kiến thức cục bộ và tổng quan về hệ thống ngôn ngữ, giữa hệ thống ngôn ngữ và hoạt động lời nói. - Lấy giao tiếp làm phương thức dạy học, phương pháp giao tiếp mặc nhiên thừa nhận vai trò trung tâm của người học (centered - learner ) theo quan điểm truyền động ( transaction ) của giáo dục học hiện đại. Theo đó, người học là chủ thể nhận thức của quá trình học tập; thầy giáo có trách nhiệm hướng dẫn, chỉ đạo, giúp đỡ người học theo phương hướng và mục đích đã định. Vậy dạy học theo phương pháp giao tiếp, ta phải làm thế nào? + Tạo các tình huống dùng hoạt động ngôn ngữ có bối cảnh giao tiếp thực nhằm kích thích nhu cầu giao tiếp và định hướng giao tiếp cho học sinh. * bao gồm các yếu tố ngôn ngữ trong ngữ cảnh (context): từ, cấu trúc ngữ, cấu trúc câu, các yếu tố ngôn điệu, yếu tố tu từ, phong cách... * bao gồm các yếu tố phi ngôn ngữ trong bối cảnh ( situation ): người nói, người nghe, không gian, thời gian, mục đích giao tiếp, ảnh hưởng của lịch sử - xã hội đối với các thành viên giao tiếp và quan hệ giữa họ với nhau... * bao gồm đặc điểm tâm lí , đặc điểm văn hoá dân tộc qua ngôn ngữ dân tộc. + Hướng dẫn quan sát - phân tích tình huống dùng hoạt động ngôn ngữ có bối cảnh giao tiếp thực: * Dưới sự dẫn dắt theo định hướng bài học bằng hệ thống câu hỏi của thầy giáo và qua hội thoại giữa thầy - trò, giữa trò - trò, học sinh cùng nhau nhận thức qui tắc, qui luật hoạt động của các hiện tượng ngôn ngữ trong mối tương quan với các yếu tố phi ngôn ngữ như đã nêu trên: ai nói, ( viết )? ai nghe ( đọc )? về cái gì? trong hoàn cảnh nào?... * Theo đó, học sinh rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết bằng cách xác định hướng và nhiệm vụ giao tiếp cho từng tình huống cụ thể. * Có thể có nhiều hình thức tổ chức dạy học theo phương pháp giao tiếp như dạy học chính khoá, câu lạc bộ ứng xử theo tình huống giao tiếp, giải bài tập trắc nghiệm tình huống... III. Các thủ pháp thường dùng trong dạy học tiếng Việt. III.1. Phân tích và tổng hợp. - Phân tích là tách một hiện tượng nào đó thành các bộ phận cấu thành để có thể xem xét tất cả các mặt của nó, lí giải đặc trưng của chúng và trên cơ sở đó mà đánh giá hiện tượng đó một cách trọn vẹn. Tổng hợp là thao tác tư duy nhằm phát hiện ra các mối liên hệ giữa các mặt, các bộ phận của hiện tượng; trên cơ sở đó mà hình dung ra cả chỉnh thể sự vật, hiện tượng. - Như vậy, phân tích và tổng hợp luôn luôn đi kèm với nhau, giúp con người nhận thức toàn diện hiện thực khách quan. Bản chất của quá trình dạy học tri thức mới là quá trình tư duy nhằm nắm được tri thức đó toàn diện và chi tiết. Bởi vậy, phân tích và tổng hợp trở thành thủ pháp dạy học... III.2. So sánh đối chiếu. So sánh đối chiếu là thao tác tư duy để phân biệt hiện tượng, khái niệm với các hiện tượng, khái niệm khác. Một khái niệm ngôn ngữ, một qui tắc ngôn ngữ chỉ trở thành yếu tố tâm lí của học sinh khi các em biết đặt nó vào hệ thống các yếu tố tâm lí của mình. Nói một cách khác, các em cần phải so sánh đối chiếu chúng với các khái niệm và qui tắc đã có của mình. Mặt khác, tiếng Việt là một hệ thống giá trị và bản chất của các yếu tố cấu thành nó chỉ được xác định trong mối quan hệ với các yếu tố khác trong hệ thống. III.3. Khái quát hoá. Khi tiến hành phân tích ngôn ngữ để rút ra các khái niệm và qui tắc, ta cần khái quát hoá vì khái quát hoá là thao tác tư duy nhằm rút ra các đặc điểm bản chất nhất của nhiều hiện tượng được phân tích. III.4. Qui loại và phân loại. Gắn bó mật thiết với thủ pháp khái quát hoá là thủ pháp phân loại và qui loại. Khi rút ra cái chung của các sự kiện ngôn ngữ, học sinh đã phát hiện khả năng phân chia chúng ra từng nhóm và qui loại chúng vào các nhóm riêng biệt. Việc chia các hiện tượng ngôn ngữ thành các nhóm dựa vào sự giống nhau và khác nhau của chúng được gọi là sự phân loại. Tiếp đó, việc đưa các hiện tượng ngôn ngữ vào các nhóm thích hợp gọi là sự qui loại. Thủ pháp phân loại và qui loại thường được ứng dụng đối với phương pháp thông báo - giải thích, phương pháp quan sát - phân tích ngôn ngữ trong giờ lí thuyết. III.5. Tạo tình huống có vấn đề. Để tăng cường tính chủ động, tích cực tư duy, cần phải tạo nhu cầu nhận thức cho học sinh. Nhu cầu này xuất hiện trong những trường hợp mà trong quá trình hoạt động học tập học sinh gặp phải khó khăn và trở ngại về nhận thức. Qua quá trình đó, các em sẽ tìm tòi, phát hiện ra các tri thức mới. Việc tạo các tình huống như vậy gọi là tình huống có vấn đề. Trong dạy học, các thủ pháp này thường được áp dụng khi nghiên cứu tài liệu mới. Giáo viên tạo ra và đặt học sinh vào tình huống có vấn đề, cung cấp những tài liệu ngôn ngữ để các em quan sát. Học sinh tự quan sát, phân tích, so sánh và rút ra những kết luận cần thiết, từ đó, phát biểu định nghĩa về các khái niệm và qui tắc. IV. Các hình thức thể hiện của phương pháp. IV.1. Hình thúc diễn giảng cần được bảo đảm các yêu cầu sau: - Nội dung trình bày cần khoa học, chính xác. Lí lẽ nêu ra có tính thuyết phục và được trình bày một cách hợp lí. - Ngôn ngữ diễn giảng phải mẫu mực: đúng chuẩn, trong sáng, bảo đảm tính giáo dục. Âm thanh nhịp điệu phải vừa phải. - Thái độ cử chỉ của giáo viên phải mẫu mực. Tuyệt đối tránh lối phô trương, sáo rỗng hoặc gắt gỏng đối với học sinh. IV.2. Hình thức đàm thoại. Khi tiến hành đàm thoại, cần lưu ý một số yêu cầu sau: - Học sinh phải có ý thức về toàn bộ hay một phần lớn cuộc đàm thoại. - Chủ đề đàm thoại phải là hệ thống những vấn đề được lựa chọn và sắp xếp hợp lí nhằm hướng tới mục đích của bài học. - Số lượng, nội dung và tính chất phức tạp của câu hỏi chủ yếu phụ thuộc vào kiến thức cần thiết, trình độ học sinh. Khi học sinh không trả lời được, giáo viên cần thêm các câu hỏi phụ để gợi mở. - Bảo đảm lôi cuốn mọi học sinh tham gia vào đàm thoại. IV.3. Hình thức đọc sách giáo khoa. Sách giáo khoa là tài liệu học tập chủ yếu của học sinh. Thầy giáo và học sinh cần biết sử dụng có hiệu quả phương tiện học tập này. IV.4. Hình thức làm bài tập tiếng Việt. Bài tập tiếng Việt là một đơn vị nội dung định hướng cho việc dạy học tiếng Việt. Thông qua việc hướng dẫn học sinh làm bài tập và quá trình làm bài tập của các em, giáo viên kiểm tra kết quả hoạt động dạy của mình. V. Về vấn đề đổi mới phương pháp dạy học tiếng Việt hiện nay. - Tại sao phải đổi mới? + Thích nghi với điều kiện xã hội - lịch sử thay đổi. + Nội dung chương trình và sách giáo khoa thay đổi. + Trên hết là cần phải cải thiện tình hình dạy và học tiếng Việt chưa tốt hiện nay. - Đổi mới theo phương hướng nào? + Quan điểm tích hợp. + Sách giáo khoa Ngữ văn. - Nội dung đổi mới cụ thể như thế nào? + Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học đã có trên ngữ liệu mới. + Giảm lí thuyết, tăng cường thời gian thực hành cho học sinh. - Quan hệ giữa đổi mới và các phương pháp đã nêu như thế nào? + Xử lí ngữ liệu theo quan điểm tích hợp khi vận dụng các phương pháp, biện pháp, thủ pháp dạy học là vấn đề mấu chốt hiện nay. Tích hợp nhưng không làm lu mờ mục đích yêu cầu riêng của từng bài dạy thuộc từng phân môn Tiếng Việt, Đọc văn, Làm văn. (tham khảo phần giới thiệu chương trình Ngữ văn THPT, phần phụ lục) 1. Việc nêu các nguyên tắc dạy học có ý nghĩa như thế nào đối với các phương pháp và thủ pháp dạy học? 2. Có ý kiến cho rằng chỉ có nguyên tắc giao tiếp chứ không có "cái gọi là phương pháp giao tiếp", anh, chị nghĩ thế nào? 3. Quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng là gì? Phải chăng ý nghĩa trực quan của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ đóng vai trò cốt lỏi trong quan điểm này? (hay đây chính là chức năng chính của ngôn ngữ?) 4. Thử bàn về quan hệ giữa dạy học tiếng và rèn luyện, phát triển tư duy cho học sinh. 5. Phương pháp quan sát-phân tích ngôn ngữ và việc ứng dụng ngữ pháp tạo sinh của N. Chomsky vào mô hình hoá cấu trúc câu tiếng Việt; ưu, nhược điểm của nó là gì? 6. Lí thuyết hoạt động ngôn ngữ chi phối nội dung chương trình và phương pháp dạy học tiếng Việt ở THPT như thế nào?Bài Giảng Các Nguyên Tắc Và Phương Pháp Dạy Học Tiếng Việt
Bài giảng Các nguyên tắc và phương pháp dạy học tiếng Việt Biên tập bởi: Trịnh Thị Lan
Bài giảng Các nguyên tắc và phương pháp dạy học tiếng Việt Biên tập bởi: Trịnh Thị Lan Các tác giả: Trịnh Thị Lan
Phiên bản trực tuyến: http://voer.edu.vn/c/47b18be5
MỤC LỤC 1. Các nguyên tắc giáo dục vận dụng vào dạy học tiếng Việt 2. Các nguyên tắc đặc thù trong dạy học tiếng Việt 3. Các phương pháp dạy học tiếng Việt 3.1. Khái niệm về phương pháp dạy học 3.2. Phương pháp thông báo – giải thích 3.3. Một số thủ pháp thường được sử dụng trong dạy học tiếng Việt 3.4. Một số hình thức thể hiện của phương pháp 4. Vận dụng tri thức lí thuyết vào thực hành Tham gia đóng góp
1/39
tính chính xác, tính khoa học, có khả năng góp phần rèn luyện tư duy cho các em ở mức có thể tối đa. Cùng với việc giáo dục thế giới quan khoa học, để đảm bảo tính tư tưởng, dạy tiếng còn phải góp phần giáo dục tình cảm, đạo đức cho học sinh. Đây là một vấn đề phức tạp và tế nhị đòi hỏi không thể đồng nhất giáo dục với giáo huấn. Cần phải chuyển hoá các nội dung giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức vào mọi khâu của hoạt động dạy tiếng. Trước hết là phải làm cho các em thích học tiếng. Để cho học sinh thích học tiếng thì nội dung phải thiết thực, hình thức phải linh hoạt, phương pháp phải sinh động sao cho các em không chỉ thấy mình có khả năng cảm nhận được cái hay, cái đẹp của tiếng Việt mà còn thấy mình có khả năng sáng tạo ra cái hay cái đẹp bằng tiếng Việt. Những vấn đề thuộc nội dung tình cảm, đạo đức hợp chuẩn xã hội phải được lồng ghép một cách tự nhiên, nhuần nhuyễn trong các văn bản ngữ liệu.
3/39
Nên sử dụng quy trình 2 trong dạy học tiếng Việt vì nó thể hiện được sự trực quan (học sinh theo dõi rất dễ), lại tái hiện được kiến thức gọn, hiệu quả, đảm bảo được tính khoa học và phát triển; phù hợp với nguyên tắc dạy học bộ môn. Vậy dạy học tiếng Việt phải đảm bảo nguyên tắc trực quan, nguyên tắc đảm bảo tính khoa học và đảm bảo tính hệ thống và phát triển. Viết bảng vẫn là một hình thức thể hiện tính trực quan phổ biến nhất trong dạy học hiện nay! Trực quan trong dạy – học tiếng chủ yếu là ” Trực quan ngôn ngữ ” cho nên tài liệu trực quan trong giờ dạy tiếng Việt chính là tiếng Việt. Để đảm bảo nguyên tắc này, ngoài việc đưa mẫu lời nói chuẩn giáo viên còn phải chú ý tới ngôn ngữ của chính mình và ngôn ngữ của học sinh( cả âm thanh và chữ viết). Trước đây, trong chương trình cải cách, mẫu lời nói chủ yếu là các ngữ liệu được dùng làm thí dụ. Vì vậy, khi đưa các thí dụ, sách giáo khoa và giáo viên cần phải xác định rõ tính chuẩn của ngữ liệu ( chuẩn về tính điển hình, chuẩn về nội dung…). Trong chương trình tích hợp hiện hành, ngữ liệu dạy tiếng không tách rời các văn bản văn học, vì thế, bên cạnh các ngữ liệu chọn làm thí dụ, các văn bản văn học được tuyển đưa vào chương trình cũng được coi là ” Mẫu lời nói ” và cũng phải đảm bảo tính chuẩn ( chuẩn về phong cách, chuẩn về hàm chứa những sự kiện ngôn ngữ điển hình cho hiện tượng tiếng Việt được đưa ra dạy học…). Trong giờ dạy – học tiếng Việt, ngôn ngữ của giáo viên và học sinh cũng là những phương diện trực quan rất quan trọng. Giáo viên không được quyền nói viết ngọng, nói viết sai từ, sai ngữ pháp, thậm chí không được quyền viết tắt, viết hoa, viết in, viết thường tuỳ tiện, không đúng với những quy định chính tả hiện hành. Khi học sinh tham gia đàm thoại xây dựng bài, giáo viên phải quan tâm đúng mức tới ngôn ngữ diễn đạt của các em, phải uốn nắn kịp thời các lỗi phát âm, chính tả, dùng từ, đặt câu… Phải cho học sinh ý thức
4/39
được rằng trong giờ học tiếng Việt, việc sử dụng tiếng Việt của các em cũng là một nội dung học tập, rèn luyện kĩ năng.
Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học Anh (chị) tự kiểm tra tri thức cũ bằng cách chọn phương án trả lời đúng cho câu hỏi sau đây: Việc dạy học môn tiếng Việt trong nhà trường được coi là việc dạy học:
Kiến thức này thuộc chương 1 của giáo trình, phần Đặc trưng của môn tiếng Việt trong nhà trường Liên hệ thực tiễn: Hiện nay, trong tổ chức, xây dựng chương trình và triển khai việc dạy học môn tiếng Việt còn một số khâu chưa thực sự đảm bảo tính khoa học. Anh (chị) thử đưa ra một vài ví dụ. Từ đó, nêu cách hiểu của mình về nguyên tắc đảm bảo tính khoa học trong dạy học tiếng Việt. Đây là nguyên tắc chung không phải chỉ riêng cho dạy – học tiếng song trong dạy – học tiếng, nguyên tắc này đòi hỏi các khái niệm, các quy tắc được đưa vào chương trình phải đảm bảo tính chính xác về nội dung khoa học, tính thống nhất về quan điểm và nguyên tắc. Tuyệt đối tránh tình trạng đưa những nội dung, những khái niệm tiếp thu vội vã của nước ngoài, áp đặt vào tiếng Việt, chưa qua kiểm nghiệm thực tế hoặc cùng một hiện tượng ngôn ngữ nhưng ở chỗ này thì trình bầy theo quan điểm này, gọi bằng thuật ngữ này những ở chỗ khác lại trình bầy theo quan điểm khác, gọi bằng thuật ngữ khác (chẳng hạn: cùng một đối tượng, lúc thì sử dụng thuật ngữ “kết từ”, lúc thì “liên từ”, lúc thì “hư từ”, lúc lại “quan hệ từ”,… lúc thì câu phức bao hàm cả câu ghép lúc lại câu phức đẳng lập với câu ghép,… lúc thì câu lúc lại phát ngôn, lúc phát ngôn lúc lại diễn ngôn, lại văn bản… ). Tính khoa học còn đòi hỏi các đơn vị kiến thức phải được phân bổ và trình bầy trong các bài học một cách hợp lí, nhất quán. Tính hợp lí của các đơn vị kiến thức không phải chỉ thể hiện ở việc xác định vị trí trước sau, trọng tâm hay không trọng tâm mà còn thể hiện cả ở phương diện định dung, định tính phù hợp với bản chất của hiện tượng ngôn ngữ và phù hợp quỹ thời gian. Tính nhất quán trong trình bầy đòi hỏi không được tuỳ tiện vi phạm nguyên tắc. Chẳng hạn đã khẳng định phải đặt các hiện tượng ngôn ngữ vào môi trường hành chức của nó để xem xét (từ trong câu, câu trong đoạn…) thì khi dạy – học về từ ngữ không được lấy thí dụ, đưa ngữ liệu chỉ là một từ tách rời khỏi ngữ 5/39
cảnh, khi chữa câu không được tách rời câu chữa ra khỏi vị trí chức năng của nó trong văn cảnh…
Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống và tính phát triển Đây là một trong những nguyên tắc hết sức quan trọng của giáo dục học cần được vận dụng linh hoạt vào dạy – học tiếng Việt ở phổ thông dù với tư cách một môn học độc lập hay chỉ với tư cách một bộ phận cấu thành của môn chung tích hợp “Ngữ văn”. Như đã trình bầy ở mục nguyên tắc xây dựng chương trình, bất cứ chương trình nào cũng phải có tính hệ thống và tính phát triển. Yêu cầu này được thể hiện trước hết ở chỗ các đơn vị kiến thức được lựa chọn đưa vào chương trình luôn phải được tổ chức, sắp xếp theo một trình tự hợp lí (phân cấp, phân lớp, phân bài, thứ tự trước sau trong bài…), vừa phản ánh được mối quan hệ bản chất giữa các đơn vị kiến thức lại vừa thể hiện được tính thống nhất về quan điểm và mục đích của việc xây dựng chương trình. Với mỗi cấp học, chương trình luôn là sự kế thừa, tiếp nối có mở rộng nâng cao các tri thức đã được đưa vào dạy – học ở bậc học dưới và luôn là sự chuẩn bị những kiến thức cơ sở cho chương trình ở bậc học cao hơn. Đối với chương trình cải cách biên soạn theo quan điểm ” Tiếng Việt là một môn học độc lập “, nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống và tính phát triển được thể hiện ở cấu trúc ” đồng tâm “, các tri thức đã dạy – học ở bậc tiểu học sẽ được tổ chức dạy – học lại ở bậc THCS nhưng có mở rộng, nâng cao và các tri thức đã được dạy – học ở THCS sẽ lại được tổ chức dạy – học lại ở PTTH và được mở rộng nâng cao thêm một bước nữa. Với chương trình biên soạn theo quan điểm Tiếng Việt là một bộ phận cấu thành của môn chung tích hợp “Ngữ văn”, nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống và tính phát triển được thể hiện có phần khác với sự thể hiện trong chương trình cải cách. Các tri thức đã dạy – học ở THCS sẽ không được tổ chức dạy – học lại ở PTTH mà được chuyển thành các bài tập thực hành trong hoạt động đọc – hiểu văn bản và làm văn. Đồng thời, các đơn vị kiến thức cũng sẽ được phân chia thành ba cụm, được biên soạn sắp xếp vào chương trình trên cơ sở của hai trục tích hợp đọc – hiểu và làm văn như đã trình bầy ở chương I. Kế thừa và phát triển còn đòi hỏi một mặt phải biết kế thừa có chọn lọc các nội dung của chương trình tiếng Việt đã có trước đó để đưa vào chương trình mới, mạnh dạn cắt bỏ những nội dung không cần thiết, những nội dung đã lạc hậu lỗi thời, mặt khác cũng phải biết tiếp thu, vận dụng có chọn lọc và sáng tạo cách xác lập nội dung chương trình của các nước có nền giáo dục tiên tiến trong khu vực và trên thế giới để hoàn thiện hiện đại hoá cho nội dung chương trình tiếng Việt.
Nguyên tắc phù hợp trình độ Hoạt động tự nhận thức
6/39
Nguyên tắc tích hợp Kiến thức cần huy động – Anh (chị) hiểu “tích hợp” là gì? – “Tính tích cực” thể hiện trong dạy học như thế nào? – Vì sao việc dạy học cần phải đảm bảo tính tích hợp, tích cực? – Trong dạy học, có thể có những cách tích hợp nào? Đọc tham khảo phần kiến thức sau: Vừa là công cụ của giao tiếp lại vừa là công cụ của tư duy, đó là bản chất xã hội của ngôn ngữ. Bởi vậy, người ta không thể dạy-học tiếng tách rời khỏi giao tiếp, tách rời
7/39
khỏi tư duy. Nội dung của giao tiếp, của tư duy luôn là kết quả tổng hoà của hoạt động nhận thức thuộc rất nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và tự nhiên. Cho nên, ở một mức độ nhất định, tự thân việc dạy-học tiếng nói chung, dạy-học tiếng Việt nói riêng cũng đã mang tính tích hợp rồi. Chẳng hạn khi lấy một thí dụ từ một văn bản văn chương hay một văn bản nhật dụng làm ngữ liệu để dạy-học một khái niệm, một quy tắc nào đấy về tiếng thì thực ra ít nhiều cũng đã vận dụng tích hợp giữa văn và tiếng. Có điều, sự vận dụng này còn mang tính chất vô thức, không được đặt ra như một lí thuyết, một nguyên tắc và cũng vì vậy, một mặt, chương trình tiếng Việt cải cách cho dù có được biên soạn theo tinh thần là một môn học độc lập thì ít nhiều vẫn chứa đựng những nội dung tích hợp và quá trình thi công chương trình này dù muốn hay không muốn cũng ít nhiều đã buộc phải vận dụng tích hợp. Mặt khác, tích hợp chỉ thực sự trở thành một nguyên tắc của việc dạy – học tiếng nói chung, tiếng Việt nói riêng khi chương trình được biên soạn theo tinh thần tích hợp, hợp nhất văn học, làm văn và tiếng Việt vào một môn chung là ” Ngữ văn “. · Với cách hiểu này, như ở chương I đã trình bầy, về nội dung nguyên tắc tích hợp đòi hỏi phải phối hợp được các tri thức gần gũi, có quan hệ mật thiết với nhau, có thể phối hợp, hỗ trợ tác động lẫn nhau để cùng tạo nên một kết quả tổng hợp, nhanh chóng và vững chắc. Các tri thức tiếng Việt tuy vẫn có tính độc lập tương đối song phải được tích hợp cùng với các nội dung văn học và làm văn thành một thể thống nhất: dạy học đọc – nghe – nói – viết . · Về phương pháp dạy – học, nguyên tắc tích hợp đòi hỏi phải lấy khâu đọc – hiểu và thực hành làm văn làm hai trục tích hợp chủ yếu, phải xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa cung cấp tri thức lí thuyết với rèn luyện kĩ năng và bồi dưỡng năng lực tiếng Việt cho học sinh, không dạy – học quá nhiều các tri thức hàn lâm nhưng cũng không dạy – học theo kiểu kinh nghiệm chủ nghĩa. Phải trên cơ sở ý thức đầy đủ về trình độ tiếng Việt và khả năng vận dụng tiếng Việt vào hoạt động đọc – hiểu của học sinh để tổ chức cho học sinh tìm hiểu vai trò biểu đạt, hiệu quả thẩm mĩ của các yếu tố tiếng Việt (âm thanh, nhịp điệu, từ ngữ, câu, đoạn, các biện pháp tu từ, các yếu tố về phong cách, về kết cấu, về ngữ cảnh…) trong mối quan hệ với văn bản văn chương hoặc văn bản nhật dụng đang được tìm hiểu, từ đó tổng hợp, khái quát hoá thành các tri thức về khái niệm và quy tắc lí thuyết, tạo tiền đề và phương hướng cho học sinh có thể tiếp tục tự học. · Về hệ thống câu hỏi trong dạy – học tiếng Việt, nguyên tắc tích hợp đòi hỏi phải gắn với hoạt động đọc – hiểu và làm văn của học sinh. Không nên chỉ hướng vào việc tìm hiểu và định nghĩa các khái niệm, các quy tắc. Cần phải tập trung vào những câu hỏi có tính chất định hướng các thao tác hoạt động, tìm hiểu vai trò biểu đạt và hiệu quả biểu đạt của các yếu tố tiếng Việt trong mối quan hệ vơí văn bản đọc – hiểu sao cho học sinh thấy được tầm quan trọng của việc sử dụng, cảm nhận được cái hay, cái đẹp, sự tinh tế, độc đáo, sáng tạo của việc sử dụng, có ý thức, có nhu cầu vận dụng và biết vận dụng sáng tạo các tri thức tiếng Việt vào hoạt động làm văn của mình.
8/39
· Hệ thống bài tập trong dạy – học tiếng Việt theo nguyên tắc tích hợp cũng phải gắn bó hữu cơ với hoạt động đọc – hiểu và làm văn của học sinh. Các bài tập có tính chất củng cố các tri thức lí thuyết về cấu trúc không nên quá nhiều. Phải coi trọng các bài tập rèn luyện kĩ năng lĩnh hội và kĩ năng sử dụng các yếu tố tiếng Việt: giải thích, phân tích hiệu quả sử dụng, hoàn cảnh sử dụng, điều kiện sử dụng ( các yếu tố ngữ âm, từ, thành ngữ, điển tích điển cố, các biện pháp tu từ từ vựng và cú pháp…), điền từ, điền câu, sửa chữa lỗi từ, lỗi câu, lỗi đoạn, lập ý, lập luận…. · Theo giáo dục học hiện đại, nhân cách là bộ mặt tâm lí đặc trưng của mỗi cá nhân, là kết quả của hàng loạt những tác động tự nhiên và xã hội, chủ quan và khách quan, là tổ hợp những phẩm chất phù hợp với những giá trị đã được xã hội thừa nhận như là những chuẩn mực của xã hội. Con người chỉ là một nhân cách khi nó thực sự là chủ thể của hoạt động bởi hoạt động là phương thức tồn tại và cũng là con đường hình thành, phát triển nhân cách. Con người hoạt động như thế nào thì nhân cách cũng được hình thành và phát triển như thế ấy. Nội dung, phương thức hoạt động, mục đích và ý thức của mỗi cá nhân trong hoạt động sẽ tạo nên những nét tính cách riêng của từng người. Mỗi con người đều là sản phẩm của chính mình. Dạy-học là một hình thức hoạt động, một con đường quan trọng nhất của giáo dục. Dạy-học ” tích cực ” là phải đảm bảo cho người học thực sự là chủ thể của hoạt động, là sản phẩm của chính mình. Về bản chất, dạy-học là một hoạt động xã hội có chủ đích, có kế hoạch và vì thế nó có tính quá trình, tính hệ thống, bao gồm nhiều nhân tố có quan hệ hữu cơ, tương tác biện chứng. Kiến thức cần huy động – Anh (chị) hiểu “tích hợp” là gì? – “Tính tích cực” thể hiện trong dạy học như thế nào? – Vì sao việc dạy học cần phải đảm bảo tính tích hợp, tích cực? – Trong dạy học, có thể có những cách tích hợp nào? Đọc tham khảo phần kiến thức sau: Vừa là công cụ của giao tiếp lại vừa là công cụ của tư duy, đó là bản chất xã hội của ngôn ngữ. Bởi vậy, người ta không thể dạy-học tiếng tách rời khỏi giao tiếp, tách rời khỏi tư duy. Nội dung của giao tiếp, của tư duy luôn là kết quả tổng hoà của hoạt động nhận thức thuộc rất nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và tự nhiên. Cho nên, ở một mức độ nhất định, tự thân việc dạy-học tiếng nói chung, dạy-học tiếng Việt nói riêng cũng đã mang tính tích hợp rồi. Chẳng hạn khi lấy một thí dụ từ một văn bản văn chương hay một văn bản nhật dụng làm ngữ liệu để dạy-học một khái niệm, một quy tắc nào đấy về tiếng thì thực ra ít nhiều cũng đã vận dụng tích hợp giữa văn và tiếng. Có điều, sự vận 9/39
dụng này còn mang tính chất vô thức, không được đặt ra như một lí thuyết, một nguyên tắc và cũng vì vậy, một mặt, chương trình tiếng Việt cải cách cho dù có được biên soạn theo tinh thần là một môn học độc lập thì ít nhiều vẫn chứa đựng những nội dung tích hợp và quá trình thi công chương trình này dù muốn hay không muốn cũng ít nhiều đã buộc phải vận dụng tích hợp. Mặt khác, tích hợp chỉ thực sự trở thành một nguyên tắc của việc dạy – học tiếng nói chung, tiếng Việt nói riêng khi chương trình được biên soạn theo tinh thần tích hợp, hợp nhất văn học, làm văn và tiếng Việt vào một môn chung là ” Ngữ văn “. · Với cách hiểu này, như ở chương I đã trình bầy, về nội dung nguyên tắc tích hợp đòi hỏi phải phối hợp được các tri thức gần gũi, có quan hệ mật thiết với nhau, có thể phối hợp, hỗ trợ tác động lẫn nhau để cùng tạo nên một kết quả tổng hợp, nhanh chóng và vững chắc. Các tri thức tiếng Việt tuy vẫn có tính độc lập tương đối song phải được tích hợp cùng với các nội dung văn học và làm văn thành một thể thống nhất: dạy học đọc – nghe – nói – viết . · Về phương pháp dạy – học, nguyên tắc tích hợp đòi hỏi phải lấy khâu đọc – hiểu và thực hành làm văn làm hai trục tích hợp chủ yếu, phải xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa cung cấp tri thức lí thuyết với rèn luyện kĩ năng và bồi dưỡng năng lực tiếng Việt cho học sinh, không dạy – học quá nhiều các tri thức hàn lâm nhưng cũng không dạy – học theo kiểu kinh nghiệm chủ nghĩa. Phải trên cơ sở ý thức đầy đủ về trình độ tiếng Việt và khả năng vận dụng tiếng Việt vào hoạt động đọc – hiểu của học sinh để tổ chức cho học sinh tìm hiểu vai trò biểu đạt, hiệu quả thẩm mĩ của các yếu tố tiếng Việt (âm thanh, nhịp điệu, từ ngữ, câu, đoạn, các biện pháp tu từ, các yếu tố về phong cách, về kết cấu, về ngữ cảnh…) trong mối quan hệ với văn bản văn chương hoặc văn bản nhật dụng đang được tìm hiểu, từ đó tổng hợp, khái quát hoá thành các tri thức về khái niệm và quy tắc lí thuyết, tạo tiền đề và phương hướng cho học sinh có thể tiếp tục tự học. · Về hệ thống câu hỏi trong dạy – học tiếng Việt, nguyên tắc tích hợp đòi hỏi phải gắn với hoạt động đọc – hiểu và làm văn của học sinh. Không nên chỉ hướng vào việc tìm hiểu và định nghĩa các khái niệm, các quy tắc. Cần phải tập trung vào những câu hỏi có tính chất định hướng các thao tác hoạt động, tìm hiểu vai trò biểu đạt và hiệu quả biểu đạt của các yếu tố tiếng Việt trong mối quan hệ vơí văn bản đọc – hiểu sao cho học sinh thấy được tầm quan trọng của việc sử dụng, cảm nhận được cái hay, cái đẹp, sự tinh tế, độc đáo, sáng tạo của việc sử dụng, có ý thức, có nhu cầu vận dụng và biết vận dụng sáng tạo các tri thức tiếng Việt vào hoạt động làm văn của mình. · Hệ thống bài tập trong dạy – học tiếng Việt theo nguyên tắc tích hợp cũng phải gắn bó hữu cơ với hoạt động đọc – hiểu và làm văn của học sinh. Các bài tập có tính chất củng cố các tri thức lí thuyết về cấu trúc không nên quá nhiều. Phải coi trọng các bài tập rèn luyện kĩ năng lĩnh hội và kĩ năng sử dụng các yếu tố tiếng Việt: giải thích, phân tích hiệu quả sử dụng, hoàn cảnh sử dụng, điều kiện sử dụng ( các yếu tố ngữ âm, từ, thành
10/39
ngữ, điển tích điển cố, các biện pháp tu từ từ vựng và cú pháp…), điền từ, điền câu, sửa chữa lỗi từ, lỗi câu, lỗi đoạn, lập ý, lập luận…. · Theo giáo dục học hiện đại, nhân cách là bộ mặt tâm lí đặc trưng của mỗi cá nhân, là kết quả của hàng loạt những tác động tự nhiên và xã hội, chủ quan và khách quan, là tổ hợp những phẩm chất phù hợp với những giá trị đã được xã hội thừa nhận như là những chuẩn mực của xã hội. Con người chỉ là một nhân cách khi nó thực sự là chủ thể của hoạt động bởi hoạt động là phương thức tồn tại và cũng là con đường hình thành, phát triển nhân cách. Con người hoạt động như thế nào thì nhân cách cũng được hình thành và phát triển như thế ấy. Nội dung, phương thức hoạt động, mục đích và ý thức của mỗi cá nhân trong hoạt động sẽ tạo nên những nét tính cách riêng của từng người. Mỗi con người đều là sản phẩm của chính mình. Dạy-học là một hình thức hoạt động, một con đường quan trọng nhất của giáo dục. Dạy-học ” tích cực ” là phải đảm bảo cho người học thực sự là chủ thể của hoạt động, là sản phẩm của chính mình. Về bản chất, dạy-học là một hoạt động xã hội có chủ đích, có kế hoạch và vì thế nó có tính quá trình, tính hệ thống, bao gồm nhiều nhân tố có quan hệ hữu cơ, tương tác biện chứng.
11/39
Các nguyên tắc đặc thù trong dạy học tiếng Việt Nguyên tắc rèn luyện ngôn ngữ gắn liền với rèn luyện tư duy Đề xuất ý kiến cá nhân Anh (chị) hãy nghĩ về một quy trình dạy học một đơn vị tri thức trong chương trình Sách giáo khoa THCS hoặc THPT. Anh (chị) dự kiến: làm thế nào để học sinh nắm bắt được đơn vị tri thức ấy một cách hiệu quả? gắn việc trang bị tri thức tiếng Việt với việc hướng dẫn cho học sinh tư duy về tri thức ấy
Ngôn ngữ vừa là công cụ lại vừa là sản phẩm của tư duy và tư duy là hiện thực trực tiếp của ngôn ngữ. Quá trình người học nhận thức các khái niệm và quy tắc của ngôn ngữ, vận dụng nó vào giải quyết các nhiệm vụ cụ thể của giao tiếp cũng chính là quá trình người học tiến hành các thao tác tư duy theo một sự định hướng về phương pháp và loại hình tư duy nào đó, hình thành nên không chỉ các kĩ năng ngôn ngữ mà còn cả các kĩ năng và phẩm chất tư duy. Bản chất xã hội này của ngôn ngữ và mối quan hệ biện chứng hữu cơ giữa hai quá trình hoạt động tư duy và hoạt động ngôn ngữ một mặt buộc chúng ta dù muốn hay không muốn cũng luôn phải gắn việc rèn luyện ngôn ngữ với rèn luyện tư duy song mặt khác cũng lại buộc chúng ta phải suy nghĩ làm thế nào để quá trình kết hợp này được thực hiện một cách có ý thức, được diễn ra theo một kế hoạch có tính toán dựa trên những cơ sở khoa học vững chắc, đảm bảo cho hoạt động dạy – học tiếng đạt được hiệu quả cao nhất. Năng lực tư duy của con người được thể hiện ở nhiều phương diện. Tư duy nhanh, chậm, chính xác, không chính xác, bền bỉ, kém bền bỉ, mạch lạc chặt chẽ, kém mạch lạc 12/39
chặt chẽ,… đó là phẩm chất của tư duy. Thiên về tư duy hình tượng hay thiên về tư duy logique, đó là khuynh hướng của tư duy. Phân tích, tổng hợp, cụ thể hoá, trừu tượng hoá, so sánh, đối chiếu, quy nạp, diễn dịch,… đó là thao tác của tư duy. Biện chứng, khách quan hay chủ quan, máy móc, đó là phương pháp tư duy. Chính vì thế, nguyên tắc rèn luyện ngôn ngữ gắn với rèn luyện tư duy đòi hỏi phải cụ thể hoá thành các yêu cầu sau đây: Dạy học tiếng phải gắn liền với rèn luyện phương pháp tư duy. Dạy học tiếng phải gắn liền với rèn luyện các thao tác tư duy. Dạy học tiếng phải gắn liền với bồi dưỡng phẩm chất tư duy. Dạy học tiếng phải gắn liền với bồi dưỡng cả hai loại tư duy, tư duy hình tượng và tư duy logique. Để thực hiện tốt được 4 yêu cầu trên, chương trình dạy-học tiếng Việt phải tuyển chọn được một hệ thống văn bản ngữ liệu có khả năng đáp ứng cao các yêu cầu rèn luyện, đồng thời cũng phải chuẩn bị tốt hệ thống các câu hỏi tìm hiểu bao gồm đầy đủ các loại: câu hỏi định hướng, câu hỏi phân tích, câu hỏi so sánh đối chiếu, câu hỏi tổng hợp, câu hỏi khái quát hoá… chuẩn bị tốt hệ thống bài tập rèn luyện kĩ năng và bài tập rèn luyện lời nói liên kết. Chính trên cơ sở này chúng ta mới có điều kiện giúp cho học sinh không chỉ thấy được giá trị của các đơn vị ngôn ngữ trong hệ thống tiếng Việt, thông hiểu được ý nghĩa của chúng, gắn chúng với nội dung hiện thực được phản ánh mà còn biết vận dụng các phương pháp, các thao tác tư duy để đưa các đơn vị này vào hoạt động trong những điều kiện giao tiếp cụ thể, thực hiện những nhiệm vụ giao tiếp cụ thể một cách hữu hiệu.
Nguyên tắc hướng vào hoạt động giao tiếp Hoạt động định hướng Tại sao trong dạy học tiếng Việt nói riêng, dạy học ngôn ngữ nói chung lại cần phải hướng vào họat động giao tiếp? Theo anh (chị), cơ sở đề xuất quan điểm này là gì? – Ngôn ngữ có chức năng giao tiếp, bởi vậy, chỉ trong giao tiếp, ngôn ngữ mới bộc lộ hết và bộc lộ một cách rõ ràng nhất đặc điểm của mình. – Học ngôn ngữ là để giao tiếp tốt hơn, cho nên không thể không đưa học sinh vào những tình huống cụ thể để học tập, để rèn luyện.
13/39
– Gắn với hoạt động giao tiếp, việc dạy tiếng trong nhà trường mới trở nên sinh động, hấp dẫn,mới giúp học sinh vượt qua được những lực cản tâm lí khi các em học tiếng mẹ đẻ. Cơ sở đề xuất quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt: – Xuất phát từ chức năng của ngôn ngữ: là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của xã hội loài người. Con người có thể sử dụng nhiều phuơng tiện giao tiếp khác nhau, nhưng không có phương tiện nào đem lại hiệu quả cao như ngôn ngữ. Ngôn ngữ không phải là phương tiện giao tiếp duy nhất, nhưng là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người. – Xuất phát từ mục đích của việc dạy học tiếng Việt trong nhà trường. Dạy tiếng Việt trong nhà trường có hai mục đích cơ bản: + Truyền thụ những kiến thức khoa học về tiếng Việt, cụ thể là những khái niệm, công thức, quy tắc, cùng những hiểu biết khác nữa về một bộ môn khoa học, đó là Việt ngữ học. + Rèn những năng lực ngôn ngữ tương ứng với những lí thuyết tiếp thu được trong bộ môn Việt ngữ học vào thực tế hoạt động giao tiếp. Ngôn ngữ là một hệ thống hoạt động chức năng, tách khỏi hoạt động chức năng nó sẽ không còn sức sống. Môi trường hành chức của ngôn ngữ, của tiếng Việt chính là giao tiếp. Cho nên, mọi quy luật cấu trúc và mọi quy tắc hoạt động của hệ thống ngôn ngữ, hệ thống tiếng Việt chỉ được thể hiện trong lời nói sinh động và rút ra từ lời nói sinh động. Muốn hình thành kĩ năng kĩ xảo ngôn ngữ, kĩ năng kĩ xảo tiếng Việt cho học sinh thì trước hết, phải tạo được môi trường giao tiếp cho học sinh trực tiếp tham gia lĩnh hội hoặc sáng tạo lời nói. Nguyên tắc hướng vào hoạt động giao tiếp chi phối toàn bộ quy trình tổ chức dạy – học tiếng Việt, từ khâu xây dựng chương trình, biên soạn giáo khoa đến khâu thiết kế thi công bài học của giáo viên. Một chương trình và giáo khoa được xác lập, được biên soạn theo nguyên tắc hướng vào hoạt động giao tiếp trước hết phải quán triệt tư tưởng giao tiếp vừa là điểm xuất phát lại vừa là đích hướng tới, vừa là nội dung lại vừa là định hướng phương pháp và môi trường tổ chức dạy học của tất cả các đơn vị kiến thức. Tinh thần này sẽ được cụ thể hoá trong một số phương diện như sau: Tất cả các khái niệm, các quy tắc và các kĩ năng ngôn ngữ nói chung, tiếng Việt nói riêng được xác lập trong chương trình phải được định hướng giao tiếp rõ ràng: không nhằm mục đích cung cấp những tri thức hàn lâm về ngôn ngữ học nói chung, Việt ngữ học nói riêng mà nhằm vào mục đích rèn luyện các kĩ năng sản sinh, lĩnh hội lời nói, phục vụ giao tiếp ( chẳng hạn rèn luyện các kĩ năng nghe-nói-đọc-viết với 5 kiểu loại
14/39
văn bản ở THCS, cáckĩ năng đọc- hiểu và làm văn cũng với 5 kiểu loại văn bản ở PTTH ). Các văn bản ngữ liệu, hệ thống câu hỏi tìm hiểu, các bài tập thực hành cũng phải được định hướng giao tiếp rõ ràng: định hướng về nội dung, định hướng về thao tác, định hướng về kĩ năng. Nhìn chung, nội dung các ngữ liệu phải đảm bảo tính sinh động, tính thực tế của giao tiếp, các câu hỏi tìm hiểu, các bài tập thực hành phải gợi mở được thao tác thực hiện, gắn liền với các kĩ năng lĩnh hội, sản sinh lời nói cần được rèn luyện. Về mặt phương pháp và thủ pháp dạy – học, phương hướng chung là phải đặt các đơn vị ngôn ngữ được đưa ra giảng dạy học tập trong hệ thống hành chức của nó ( Thí dụ: đặt từ trong câu, đặt câu trong đoạn, đoạn trong văn bản, xác định rõ các nhân tố chi phối… – giải thích rõ tại sao phải như vậy). Muốn vậy phải tạo ra được những tình huống giao tiếp khác nhau và tổ chức cho học sinh đưa các đơn vị, các khái niệm, các quy tắc ngôn ngữ vào thực hành lĩnh hội hoặc sản sinh lời nói. Hết sức hạn chế diễn giảng, thuyết minh giải thích. Cần coi phát vấn đàm thoại và thực hành vận dụng là hình thức chủ đạo trong dạy – học tiếng. Hoạt động vận dụng Từ những tri thức lí luận về nguyên tắc dạy học tiếng hướng vào hoạt động giao tiếp ở trên, anh (chị) hãy trình bày một hướng dạy học tiếng Việt đảm bảo nguyên tắc này.
Nguyên tắc chú ý đến trình độ tiếng Việt vốn có của học sinh Suy nghĩ và trình bày ý kiến Anh (chị) hiểu thế nào là nguyên tắc chú ý đến trình độ tiếng Việt vốn có của học sinh? Tại sao phải chú ý đến nguyên tắc này khi dạy học tiếng mẹ đẻ? Không nên quan niệm giản đơn về trình độ tiếng Việt của học sinh bởi không phải chỉ những kiến thức được học trong nhà trường mới làm nên vốn tiếng Việt của các em. Vốn tiếng Việt của học sinh được hình thành từ rất nhiều nguồn, gắn liền với môi trường sống và giao tiếp của các em. Cũng chính vì vậy, nó vừa không đồng đều ở mọi đối tượng học sinh lại vừa phức tạp ngay trong tự thân, không chỉ có những yếu tố tích cực mà còn có cả những yếu tố tiêu cực, không chỉ có những yếu tố được hình thành, được sử dụng một cách có ý thức mà còn có cả những yếu tố được hình thành, được sử dụng một cách vô thức… Chú ý tới trình độ tiếng Việt vốn có của học sinh chính là phải điều tra, phân loại, nắm vững được đặc điểm vốn tiếng Việt của các em để trên cơ sở đó đề ra được những biện
15/39
pháp thích hợp nhằm ý thức hóa, tích cực hóa, bổ sung, hoàn thiện vốn kinh nghiệm tiếng Việt đó. Để ý thức hóa, tích cực hóa, bổ sung, hoàn thiện cần phải: + Phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong giờ học bằng các hoạt động tìm ngữ liệu, quan sát, phân tích, khái quát tổng hợp rút ra các định nghĩa về khái niệm và quy tắc. + Nắm vững khả năng trình độ, vốn kinh nghiệm ngôn ngữ của học sinh ở từng độ tuổi, cấp học, từng loại đối tượng để có sự điều chỉnh nội dung, phương pháp cho thích hợp. + Hệ thống hóa vốn kinh nghiệm tiếng Việt của từng đối tượng học sinh để có thể phát huy những kinh nghiệm tích cực, hạn chế và loại bó dần những kinh nghiệm tiêu cực thông qua những uốn nắn kịp thời.
Nguyên tắc so sánh và hướng tới cả hai dạng nói, viết Hoạt động tự kiểm tra Điền vào chỗ bỏ trống các từ thích hợp: Nghe, nói, đọc, viết là những dạng hoạt động khác nhau của ngôn ngữ và đều có tính phổ biến và quan trọng như nhau. Trong 4 loại hoạt động này, xét về đặc tính vật chất của phương tiện giao tiếp thì: nghe, nói là những hoạt động bằng … (1), đọc, viết là những hoạt động bằng … (2); còn xét về mục đích của giao tiếp thì: nói, viết là những hoạt động … (3) lời nói, nghe, đọc là những họat động … (4) lời nói. Bởi vậy, khi dạy học cần chú ý tới cả 4 dạng hoạt động này. (1) âm thanh, (2) chữ viết, (3) tạo lập hoặc sản sinh, (4) tiếp nhận hoặc sản sinh Dạng nói và dạng viết là hai dạng tồn tại khác nhau của lời nói, mang những đặc điểm khác nhau. Muốn học sinh nắm được cả hai dạng lời nói này, cần phải so sánh, đối chiếu và chỉ ra sự khác biệt giữa chúng với nhau, lưu ý học sinh không nên “nói như viết” hoặc “viết như nói “. Đối với học sinh bậc tiểu học thì dạng viết là giai đoạn thứ hai của việc chiếm lĩnh ngôn ngữ và sẽ không thể chiếm lĩnh nếu các em không nắm được dạng nói. Đây chính là cơ sở để vạch ra quy trình dạy tập làm văn ở bậc tiểu học: Tìm hiểu bài-Tập làm văn miệng-Tập làm văn viết. Lên các lớp thuộc cấp trên, không nhất thiết dạng nói phải đi trước dạng viết nhưng nhất thiết không được bỏ qua dạng nói và phải luôn luôn nhận thức đúng về mối quan hệ hữu cơ của việc rèn luyện cả hai dạng lời nói này.
16/39
Các phương pháp dạy học tiếng Việt Khái niệm về phương pháp dạy học Đọc, so sánh và rút ra kiến thức cần thiết Khái niệm “phương pháp dạy-học “: Phương pháp dạy học là những cách thức làm việc giữa thầy giáo và học sinh, nhờ đó mà học sinh nắm vững được kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, hình thành được thế giới quan và năng lực. Khái niệm thủ pháp dạy học: Thủ pháp dạy học là cách thức giải quyết một vấn đề cụ thể nào đó thuộc một phương pháp nhất định hay nói khác đi, thủ pháp chính là thao tác bộ phận của một phương pháp. Đọc khái niệm “phương pháp” và “thủ pháp” trên. Theo anh (chị), ranh giới giữa hai khái niệm này có tuyệt đối không? Ranh giới giữa hai khái niệm “phương pháp” và “thủ pháp” chỉ mang tính tương đối. So với khái niệm “phương pháp”, khái niệm “thủ pháp” hẹp hơn. Mối quan hệ giữa phương pháp và thủ pháp có thể tạm so sánh với cách hiểu về chiến lược và chiến thuật trong khoa học quân sự. Nếu phương pháp chú ý tới cả quá trình thì thủ pháp là việc chú ý chủ yếu tới một thời điểm nhất định nào đấy trong quá trình đó. Mở rộng kiến thức về khái niệm phương pháp dạy học Cho đến nay vẫn chưa có được một định nghĩa thống nhất. Có quan niệm cho rằng “Phương pháp dạy học là những cách thức làm việc giữa thầy giáo và học sinh, nhờ đó mà học sinh nắm vững được kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, hình thành được thế giới quan và năng lực”. Cũng có quan niệm cho rằng ” Phương pháp dạy-học là những hình thức kết hợp hoạt động của giáo viên và học sinh hướng vào việc đạt một mục đích nào đó “. Nhìn chung, cách hiểu thứ nhất được nhiều người tán thành nhưng cách hiểu về hai chữ “cách thức” lại rất khác nhau nên kết quả cũng có nhiều hệ thống phương pháp khác nhau. Để không hiểu sai khái niệm phương pháp dạy-học cần chú ý phân biệt với các khái niệm: phương pháp luận, môn học phương pháp, thủ pháp dạy học, hình thức dạy học . a)Khái niệm phương pháp luận được hiểu ở hai phương diện cơ bản: · Phương diện thứ nhất, phương pháp luận được hiểu là học thuyết về phương pháp khoa học nói chung và với ý nghĩa này, phương pháp luận chính là triết học Mác-Lê nin.
17/39
18/39
7 Nguyên Tắc Học Tiếng Anh Bằng Phương Pháp Effortless English
7 nguyên tắc học tiếng anh bằng phương pháp Effortless English
Nguyên tắc đầu tiên: Hãy dành 1 ngày để đọc kỹ bản hướng dẫn trước khi học.
Với phương pháp học tiếng Anh mới, Effortless English sẽ đưa bạn tiếp cận ngôn ngữ khác với cách tiếp cận truyền thống. Trong suốt quá trình học, nhiều bạn gặp thất bại vì lý do phương pháp học quá mới nên không nắm rõ quy trình học như thế nào. Nguyên nhân của sự thất bại này là do các bạn bỏ qua phần hướng dẫn học hoặc đọc một cách qua loa. Thậm chí nhiều bạn tự mày mò cách học trên Internet mà không để ý tới sự tồn tại của bảng hướng dẫn này. Điều này sẽ làm tạo ra tâm lý chán nản, không có hứng thú học hay không biết mục đích học để làm gì. Vì vậy muốn thành công trong quá trình học tiếng Anh theo phương pháp Effortless English, hãy dành trọn 1 ngày để đọc kỹ bảng hướng dẫn, lên mục tiêu và kế hoạch học tập.
Nguyên tắc thứ hai: Thực hiện đúng nguyên tắc thời gian tối thiểu 7 ngày.
Chậm mà chắc còn hơn nhanh mà không hiệu quả. Hãy học tối thiểu 7 ngày/bài học, có thể là 2 tuần hoặc nhiều hơn. Đấy chính là yêu cầu của thầy A.J Hoge, vậy tại sao cần phải tuân theo quy tắc này?
Một nguyên tắc mà thầy đã từng đưa ra là Học sâu (Deep Learning). Bạn biết “Học sâu” là như thế nào chưa? Tôi lấy ví dụ đơn giản: Trong tập thể dục, bạn có để ý là khi thực hiện một động tác khó lặp đi lặp lại nhiều lần, thì sau một thời gian bạn sẽ thực hiện động tác đó một cách dễ dàng đúng không? Một ví dụ khác: bạn có để ý những người học võ tập đi tập lại một thế võ trong thời gian dài, có thể từ năm này qua năm khác. Điều này sẽ giúp họ phản ứng nhanh trong các tình huống thi đấu.
7 ngày kiên trì học tiếng anh
Tóm lại, “Học sâu” có nghĩa là quá trình hình thành nên phản xạ tự nhiên có điều kiện bằng cách lặp đi lặp lại một hành động trong thời gian dài. Như vậy, mục đích của thầy A.J Hoge là giúp bạn nhận diện và phân biệt âm bằng cách nghe đi nghe lại nhiều lần. Từ đó bạn có thể nghe được tiếng Anh thuần thục và hiểu được họ đang muốn nói vấn đề gì.
Nguyên tắc thứ ba: Sử dụng giáo trình Effortless English đúng nguồn gốc và chắc chắn có người đi trước dẫn đường cho bạn.
Tại sao phải cần sử dụng giáo trình Effortless English đúng nguồn gốc? Bởi vì giáo trình này được sắp xếp theo đúng trình tự, cấu trúc bài học một cách khoa học và hợp lý, giúp bạn tiếp thu kiến thức dễ dàng. Nếu sử dụng giáo trình không rõ nguồn gốc, không những bạn không nắm được kiến thức vững chắc mà còn tốn thời gian nữa.
Tại sao cần phải có người đi trước dẫn đường cho bạn? Bởi vì họ sẽ chỉ cho bạn nên bắt đầu học từ đâu và như thế nào, làm sao để đạt hiệu quả cao nhất và tránh những sai lầm trong khi học phương pháp.
Ngày nay, ngoài cộng đồng Learning Effortless English, trên các trang web trực tuyến có rất nhiều trang cá nhân lập lên để cung cấp giáo trình này cho bạn, tuy nhiên không phải trang nào cũng cung cấp cho bạn bộ giáo trình Effortless English đầy đủ và hướng dẫn cho bạn học đúng cách và đúng phương pháp.
Nguyên tắc thứ tư: Hãy lên kế hoạch, mục tiêu rõ ràng trước khi học, không học kiểu “Cắm đầu học, tới đâu thì tới”.
Bạn đã từng thấy ai đó làm điều gì thành công mà không xác định mục tiêu và lên kế hoạch trước đó chưa? Những người thất bại khi học tiếng Anh không phải vì họ không có năng khiếu, hay không đủ thông minh học tiếng Anh, mà vì họ không có mục tiêu, kế hoạch học tập cụ thể.
Đây là điều mà thầy A.J Hoge đã dự tính trước, và đã lập sẵn cho các bạn một bản kế hoạch, mục tiêu học tập rất rõ ràng. Tuy nhiên có nhiều bạn đã không thực hiện đúng, thậm chí còn thay đổi mục tiêu, phương pháp học. Chính vì thế, họ đã tự trả giá với kết quả học không như mong muốn, mất thời gian, tiền bạc của chính mình.
Tôi khuyên bạn hãy thực hiện đúng mục tiêu, kế hoạch mà thầy A.J Hoge đã đưa ra. Tuy nhiên, kế hoạch có thể thay đổi do thời gian biểu của từng người khác nhau, nhưng mục tiêu thì tuyệt đối không được thay đổi.
Nguyên tắc thứ năm: Tránh học theo kiểu hay thì học, khó thì bỏ. Hãy kiên nhẫn mà học.
Cùng là người nhưng tại sao có người thành công, có người thất bại? Một người Mỹ từng nói một câu: Success is a progress, not an event! (Thành công là một quá trình, không phải một sự kiện!). Ở đây tiếng Anh là một quá trình không phải một sự kiện, không có phép thần nào dành cho kẻ lười biếng cả. Lúc đầu mới biết đến phương pháp thì rất háo hức, tinh thần sảng khoái và có thái độ tích cực như đã tìm thấy thuốc thần, đến khi bắt đầu học: Thầy ơi tiếng Anh không à sao mà học – Thầy ơi, thầy dịch giùm em từ này với – Thầy ơi, thầy có thể dịch luôn cho em bài này được không thầy, tra từ điển mất thời gian quá – Thầy ơi, con học không hiệu quả, có phải con học sai cách không, con học hết level 1 mà vẫn chưa nói được tiếng Anh…
Trên con đường thành công, không có dấu chân của kẻ lười biếng, bạn muốn nói được tiếng Anh thì bạn phải chịu khó, lao vào mà học, bám sát mục tiêu, học hết mình. Tuyệt đối không nhờ vả người khác những điều bạn có thể làm được một cách dễ dàng. Nều như có thói quen ỷ lại thì không chỉ trong tiếng Anh mà cuộc sống của bạn sẽ gặp nhiều khó khăn. Hãy chủ động mà học tập.
7 nguyên tắc học tiếng anh Effortless English
Nguyên tắc thứ sáu: Người giỏi luôn đúng
Khi trò chuyện với một số bạn, tôi nhận thấy hầu hết các bạn khi học Effortless English thường rất ngại giao tiếp, nhiều bạn sợ người khác nghe thấy mình nói tiếng Anh dỡ nên không dám nói to. Thậm chí phải đeo tai phone, rồi nói thầm, lảm nhảm trong miệng mà không dám nói to thành tiếng.
Một câu chuyện có thật mà tôi muốn kể cho các bạn nghe: Trong một chương trình thực tế tại Việt Nam có tên Thách thức danh hài, trong chương trình có một người thầy giáo dạy tiếng Anh khoảng 27 tuổi, khi được danh hài Trấn Thành hỏi làm như thế nào để anh ta có thể trở thành thầy giáo tiếng Anh mà không qua một trung tâm hay trường lớp nào, người thầy giáo đó liền trả lời do không có điều kiện để đi học, thế nên ban ngày đi kiếm tiền, ban đêm về đứng trước gương và tập nói các câu tiếng Anh trong cuốn sách hướng dẫn học tiếng Anh được mua ở tiệm sách cũ, anh ta lặp đi lặp lại mỗi câu 500 lần, cứ như vậy sau một năm anh ta đã có thể giao tiếp tiếng Anh lưu loát với người bản xứ mà không cần tham gia bất cứ trung tâm, trường lớp nào.
Hồi đó khi bắt đầu học Effortless English, tôi cũng như thầy giáo đó, học tới đâu tôi phát âm thành tiếng tới đó. Nhiều khi mấy đứa bạn cùng phòng chê tôi phát âm dở và không giống ai, tuy nhiên tôi bỏ ngoài tai những lời nhận xét đó và vẫn tiếp tục học theo phương pháp này. Sau một thời gian ngắn, tôi cải thiện cách phát âm rất nhiều và nói chuyện, giao tiếp tiếng Anh tự tin hơn. Lúc này bạn trong phòng tôi thắc mắc: “Làm cách nào mà nói tiếng Anh lưu loát vậy?” và nhiều người khá ngạc nhiên với sự thay đổi của tôi.
Nguyên tắc thứ bảy: Suy nghĩ tích cực!
Trong tiếng Anh có một câu: You can if you think you can! (Bạn có thể nếu bạn nghĩ bạn có thể!), đây là một trong những câu châm ngôn đi theo tôi suốt quá trình học tiếng Anh, trước khi bắt đầu một bài học Effortless English, tôi đọc đi đọc lại câu châm ngôn này 10 đến 15 lần. Và nó đã tạo cho tôi một cảm xúc tích cực, giúp việc tiếp thu các bài học nguyên tắc học tiếng anh hiệu quả bằng Effortless English nhanh và hiệu quả hơn rất nhiều.
Các Nguyên Tắc Học Tiếng Ba Lan Nhanh Và Hiệu Quả Nhất
Khi học tiếng Ba Lan bạn hãy viết cả một câu trọn vẹn chứ đừng học theo kiểu rời rạc bởi vì làm như vậy thì trình độ nói và ngữ pháp của bạn về tiếng Ba Lan sẽ tốt lên rất nhanh so với cách học bình thường của bạn.
Vì sao nên học tiếng Ba Lan?
Khóa học tiếng Ba Lan giao tiếp
Vậy như thế nào mới là học chuyên sâu? Học chuyên sâu chính là ôn đi ôn lại bài học của mình nhiều lần nhất có thể. Ví dụ, nếu bạn có một đĩa nghe hãy cố gắng nghe mỗi chương vài chục lần trước khi chuyển sang nghe những chương tiếp theo. Để có thể nghe một chương vài chục lần thì bạn nên nghe mỗi ngày vài lần và nghe liên tục trong vòng 10 ngày. Đây là phương pháp hiệu quả nhất để các bạn có thể học và sử dụng ngữ pháp tiếng Ba Lan một cách hiệu quả nhất. Bạn phải học ngữ pháp bằng việc nghe tiếng Ba Lan một cách thực thụ. Cách tốt nhất để các bạn có thể nghe các câu chuyện một cách hiệu quả nhất đó chính là nghe các câu chuyện qua những “thì” khác nhau như quá khứ, tương lai, hiện tại,…
Bạn làm thế nào để có thể tìm được những câu chuyện như thế? Chúng tôi xin phép được bật mí với các bạn một cách rất đơn giản để tìm những câu chuyện đó chính là thu thập một câu chuyện hay trên một cuốn sách, bài báo, tin tức,… Sau đó nhờ những người có trình độ tiếng Ba Lan cao như giáo viên, gia sư để viết lại câu chuyện mà bạn đã thu thập với các thì quá khứ, hiện tại, tương lai,… Cuối cùng, bạn hãy nhờ họ đọc và ghi lại những câu chuyện mà bạn đã nhờ họ làm.
Học tiếng Ba Lan bằng âm nhạc
Đây chính là cách mà bạn có thể nghe được những câu chuyện với nhiều dạng ngữ pháp biến đổi khác nhau. Và điều đặc biệt ở đây chính là bạn không cần phải tìm hiểu gì về các nguyên tắc ngữ pháp. Bạn chỉ cần nghe những câu chuyện đó từ những quan điểm khác thì ngữ pháp của bạn sự tự động tốt lên mà thôi. Bạn sẽ sử dụng được các ngữ pháp đó một cách tự động và chính xác nhất. Đây chính là bí mật của việc học ngữ pháp của tiếng Ba Lan mà tôi muốn giới thiệu cho các bạn.
Bạn có bao giờ thắc mắc về vấn đề: Tại sao học tiếng Ba Lan đã lâu rồi mà vẫn cảm thấy rất khó khăn trong khi giao tiếp với những người bản xứ ở đây? Bạn hãy yên tâm một điều đó chính là bạn không làm gì sai cả. Vấn đề chính ở đây là nằm ở trung tâm học tiếng Ba Lan của bạn và những cuốn sách giáo khoa mà bạn sử dụng. Sách giáo khoa và những đĩa CD của sách giáo khoa không hề tốt cho việc học tiếng Ba Lan của bạn. Bạn sẽ không bao giờ học được tiếng Ba Lan giao tiếp một cách thực thụ cả.
Bạn có thể học tiếng Ba Lan hội thoại tự nhiên nếu bạn muốn hiểu người bản ngữ và nói một cách dễ dàng. Sử dụng hội thoại thật, báo, tạp chí thật, chương trình TV, phim, radio và các sách nghe. Hãy tìm các nguồn hội thoại tiếng Ba Lan thực thụ, đọc và Nghe hàng ngày.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Các Nguyên Tắc Và Phương Pháp Dạy Học Tiếng Việt trên website Maytinhlongthanh.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!